BÁO CÔ & BẢO KÊ
BÁO CÔ & BẢO
KÊ
Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học
(Vietlex) do Hoàng Phê chủ biên đã ghi nhận mục báo cô nhưng chỉ ghi chú chữ
Hán cho mục này là [報辜] chứ không
giảng mà lại chuyển chú đến mục ăn báo cô.
Còn ăn báo cô thì được giảng là “ăn hại, ăn bám
người khác mà chẳng giúp ích được gì”.
Dĩ nhiên là cái nghĩa này đã được giảng đúng,
nhưng đây chỉ là nghĩa hiện hành, có phần ngược với nghĩa gốc là đằng khác.
Báo cô là bảo cô bị nói trại đi còn bảo cô [保辜] là hai chữ Hán dùng để chỉ một
điều luật thời xưa của Trung Quốc, đại khái là kẻ hành hung gây thương tích cho
người bị hại phải nuôi người này trong một thời gian quy định rồi tùy theo mức
độ hồi phục của nạn nhân mà xử tội, nếu chưa đến kỳ hạn mà nạn nhân tử vong thì
kẻ gây án sẽ bị kết tội sát nhân. Bảo [保] có nghĩa là “giữ gìn; nuôi dưỡng; nhận lấy trách nhiệm”
còn cô [辜] là “tội lỗi” cho nên bảo
cô có nghĩa gốc là “tội phải nhận nuôi dưỡng [ai đó]”.
Bảo cô đã bị từ nguyên dân gian thay thanh đổi
nghĩa thành báo cô mà hiểu báo như trong báo cơm, báo đời, báo hại. Nhưng với sự
lệch thanh lạc nghĩa này, hai tiếng báo cô đã được thói quen ngôn ngữ “bảo kê”
để ngang nhiên tồn tại. Với cái nghĩa này, nó đã được tác giả của mục từ hữu
quan trong Từ điển tiếng Việt chú thích bằng hai chữ Hán [報辜] nhưng đây là một việc làm sai
trái vì [報辜] chẳng những không phải
là một từ tổ cố định của tiếng Hán mà cũng không thấy xuất hiện trong lời ăn tiếng
nói của dân Trung Quốc.
Bảo [保] trong bảo cô [保辜] có một điệp thức quen thuộc và thông dụng là bầu, như
trong: - bầu cử < bảo cử, có nghĩa là đề cử một người mà mình tin ở năng lực
vào một chức vụ nhất định và chịu trách nhiệm về sự đề cử đó; - ông/bà bầu <
bầu chủ, có nghĩa là người chịu trách nhiệm bảo lãnh cho một người nào đó. Bảo
chủ còn có một danh ngữ đồng nghĩa là bảo gia [保家], mà âm Triều Châu (Trung Quốc) là pổ kê. Âm này đã đi
vào tiếng Việt miền Nam (miền Tây Nam bộ có rất nhiều người gốc Triều Châu sinh
sống) thành bảo kê, vốn có sắc thái trung hòa nhưng nay lại thông dụng với sắc
thái xấu nghĩa (pejorative) để chỉ hành động bảo vệ hoặc dung túng cho những hoạt
động bất hợp pháp. Tầm-nguyên tự-điển Việt-Nam của Lê-Ngọc-Trụ (NXB Thành phố Hồ
Chí Minh, 1993, ảnh) ghi âm Triều Châu của hai chữ [保家] theo chữ quốc ngữ là “bo kê”
(tr. 470) nhưng phương ngữ này của tiếng Hán chỉ có P chứ không có B.
Còn chữ báo [報] trong báo cô [報辜] của Từ điển tiếng Việt thì có nghĩa là nói cho biết, kể
lại cho biết (bên cạnh những nghĩa khác). Với cái nghĩa này, nó đã được tập
quán ngôn ngữ của người Việt biến đổi từ thanh điệu 5 (dấu sắc) sang thanh điệu
4 (dấu hỏi) thành bảo, như trong bảo ban, dạy bảo... Bảo có một điệp thức là biểu,
thông dụng trong tiếng Việt miền Nam.
AN CHI
Nhận xét
Đăng nhận xét