“LÁ CÀ” TRONG “GIÁP LÁ CÀ” LÀ GÌ?
“LÁ
CÀ” TRONG “GIÁP LÁ CÀ” LÀ GÌ?
Lá cà của hai bên luôn ở tư thế áp sát
vào nhau trong khi vũ khí ngắn được sử dụng
linh hoạt để đâm chém -Minh hoạ: St
linh hoạt để đâm chém -Minh hoạ: St
Thành ngữ “Giáp lá cà” được các nhà biên
soạn từ điển giải thích như sau:
-“Việt Nam tự điển” (Lê Văn Đức): “giáp lá cà • trt. C/g. Xáp
lá-cà, ráp đánh nhau bằng võ-khí ngắn”.
-“Từ điển Việt Nam phổ thông” (Đào Văn Tập): “giáp lá cà • (h. Sát lá cà) Nói quân hai bên xông vào nhau mà đâm chém nhau”.
-“Việt Nam tân tự điển” (Thanh Nghị): “giáp-lá-cà • trt. Nói cách
đánh sát nhau, xông vào đâm chém nhau <> Vì có nhiều trận giáp lá-cà nên
máy bay địch không thể thả bom được. // Trận giáp-lá-cà”.
Tuy
nhiên, nghĩa đen của “giáp lá cà” là sao?
Sách “1575 Thành ngữ tục ngữ cần bàn thêm” (Lê Gia-NXB Văn Nghệ, 2009) giải
thích: “Đánh giáp (sáp) lá cà Có một hiện tượng khá đặc biệt là: Hai cây
cà trồng gần nhau nếu lá của cây này mà sát vào nhau thì chỗ đụng nhau ấy sẽ tự
nhiên dần dần ủng thối và hư luôn. Do đó mà trong vườn cà người ta không trồng
dầy. Nhựa của cà rất độc cho nên có câu “Một quả cà là ba chén thuốc”. Vậy nên,
trong chiến trận, khi quân sĩ hai bên đã tiến sát vào nhau mà đánh cận chiến
thì hễ hai người đụng nhau là phải có người bị ngã, người ta gọi đánh nhau như
vậy là “Đánh giáp (sát) lá cà”.
Bài “Tại sao gọi là giáp lá cà”, tác giả Nguyễn Việt Khoa cho rằng “Giáp
lá cà”, “Sáp lá cà” hay “Đánh giáp lá cà” không phải là
thành ngữ quá khó hiểu trong Tiếng Việt", và giải thích:
“Lá cà” là một từ dân gian để chỉ bộ phận che ngực, bụng và hạ bộ của áo giáp võ quan ngày xưa. Như vậy, theo nghĩa đen thì “đánh giáp lá cà” là cận chiến, đánh mặt đối mặt, “lá cà” của các võ quan kề sát hẳn vào nhau (...) Cách gọi này mô phỏng trực tiếp sự giống nhau của bộ phận giáp phục này với hình dánh chiếc lá cây cà. Còn “đánh giáp lá cà” là đánh nhau gần tới mức lá cà của áo giáp kề sát vào nhau.” (nguyenvietkhoa.edu.vn).
“Lá cà” là một từ dân gian để chỉ bộ phận che ngực, bụng và hạ bộ của áo giáp võ quan ngày xưa. Như vậy, theo nghĩa đen thì “đánh giáp lá cà” là cận chiến, đánh mặt đối mặt, “lá cà” của các võ quan kề sát hẳn vào nhau (...) Cách gọi này mô phỏng trực tiếp sự giống nhau của bộ phận giáp phục này với hình dánh chiếc lá cây cà. Còn “đánh giáp lá cà” là đánh nhau gần tới mức lá cà của áo giáp kề sát vào nhau.” (nguyenvietkhoa.edu.vn).
Hình minh hoạ
bộ phận gọi là "lá cà" trên áo giáp, trong bài viết của tác giả
Nguyễn Việt Khoa
Trên trang hoidap.vinhphuc.net, mục
“Kiến thức quanh ta” đưa ra cách giải thích tương tự: “Theo nhà giáo Trịnh Mạnh
thì Lá cà là một bộ phận làm bằng đồng nhằm che ngực, che bụng, che hạ bộ được
gắn vào áo của các võ quan ngày xưa. Đánh giáp lá cà đánh mặt đối mặt, lá cà của
các võ quan sát hẳn vào với nhau”.
Theo chúng tôi, cách lý giải của Lê Gia thiếu cơ sở. Bởi trong thế giới thực vật
cũng có hiện tượng “kị nhau”, loài này trồng gần loài kia thì gây hại, loại trừ
nhau. Nhưng với những cây cùng loài, cùng giống, khi trồng dày, cành lá giao
nhau, cùng lắm cũng chỉ cạnh tranh dinh dưỡng, ánh sáng, dẫn đến kém sinh trưởng,
dễ phát sinh sâu bệnh, chứ không có chuyện cùng giống cà, mà “lá của cây này mà
sát vào nhau thì chỗ đụng nhau ấy sẽ tự nhiên dần dần ủng thối và hư luôn”. Thực
tế cho thấy, vườn cà khi giao tán nhau vẫn sinh trưởng tươi tốt, cho thu hoạch
bình thường.
Cà trồng
giao tán vẫn sinh trưởng bình thường -Ảnh: ST
Lê Gia dẫn chứng “Nhựa của cà rất độc
cho nên có câu “Một quả cà là ba chén thuốc”. Tuy nhiên, dân gian cho rằng, cà
tính độc, hạt cứng khó tiêu (ăn cà muối xổi có khi còn bị “tích độc” [tắc ruột]).
Nên câu “Một quả cà là (bằng) ba chén (thang) thuốc”, được hiểu: đang ốm yếu
mà ăn cà vào thì bệnh càng nặng thêm, cứ một quả cà phải uống thêm 3 thang thuốc,
mới khỏi bệnh. Theo đây, “nhựa cà” có thể độc đối với người ăn, chứ không độc với
chính các cây cà khi “đụng nhau”. Mặt khác, “giáp lá cà” là hai bên xông vào
đâm chém nhau một mất một còn, chứ đâu phải “đụng nhau”, khiến “có người bị
ngã”?
Tác
giả Nguyễn Việt Khoa và Nhà giáo Trịnh Mạnh có hướng tiếp cận khá hay. Tuy
nhiên, xét cụ thể thì các giải thích này lại chưa thoả mãn được thực tế những
trận chiến giáp lá cà. Vì nếu “lá cà” là “bộ phận che ngực, bụng
và hạ bộ”[1], khi “cận chiến”, “lá cà” của các võ quan kề sát hẳn vào
nhau”, phải hiểu các “võ quan” xông vào “vật nhau” mới đúng. Chỉ
khi vật nhau, ôm nhau, thì bụng mới áp với bụng, “lá cà” của các võ
quan” mới “kề sát hẳn vào nhau”.[2] Trong khi “đánh giáp lá cà” (Hán-Anh: 直接交手的, 白刃戰的, 肉搏的 - hand-to-hand) là
đánh nhau trực diện bằng tay, hoặc võ khí ngắn, giữa hai đối thủ vẫn giữ một
khoảng cách linh hoạt.
Theo
một hướng tiếp cận khác, chúng tôi cho rằng, “lá cà” trong “giáp lá cà”,
chính là cách dân gian gọi cái thuẫn, hay khiên, mộc, (còn gọi “lá chắn”)
của “kiếm thuẫn binh”-劍盾兵 (binh lính được trang bị kiếm và thuẫn
khi xung trận), mà “Từ điển tiếng Việt” (Vietlex) giảng: “lá chắn: tên
gọi chung vật dùng để che đỡ cho tên, gươm, giáo khỏi trúng người trong chiến
trận thời xưa, như khiên, mộc, v.v”.
Hình dáng tấm
lá chắn rất giống với cái "lá cà" -Minh hoạ: St
Xét hình dáng tấm “lá chắn” (thuẫn,
khiên, mộc...) rất giống cái “lá cà”. Từ điển tiếng Việt (Vietlex), giảng về
cái “thuẫn” như sau: ““thuẫn - 盾 d vật dùng để cầm che đỡ cho gươm, giáo
khỏi đâm trúng người khi đánh trận thời xưa, hình thon dần về một đầu, như nửa
hình cái thoi: tấm thuẫn”.
Các loại thuẫn
mang hình dáng của "lá cà" -Ảnh: ST
Lá cây cà (đặc biệt là giống cà dại) phần
đầu lá bằng, tựa như phần trên của cái thuẫn; thân phình ra, rồi hóp dần về
phía đuôi lá, gân và gai trên lá nổi lên giống những chiếc đanh thép ghép các mảnh
gỗ của “lá chắn” lại với nhau[3]. Khi cận chiến, tay trái chiến binh cầm “lá
cà”, luôn giơ ra phía trước, tay phải cầm võ khí ngắn, vừa đánh vừa che đỡ, tấn
công đi đôi với phòng thủ. Đao, kiếm bên này xỉa, chém, bị “lá cà” bên kia chống
đỡ. Lúc “vờn nhau”, “giữ miếng” thì cả hai bên đều giơ lá “lá cà” ra phía trước.
Lá cà của của bên nọ “sát”, “giáp”, “chập” vào “lá cà” của bên kia. Chỉ đợi đối
phương sơ hở là đưa ra cú đâm, chém chí mạng. Bởi vậy, dân gian có câu “Rình
nhau như miếng mộc”. Miếng mộc ở đây chính là “lá chắn”, “lá cà”. Khi “lá cà” của
hai bên “giáp”, “sát” vào nhau, chính là khoảng cách hợp lý, vừa đủ để sử dụng
võ khí ngắn tiêu diệt đối phương.
Giáp lá cà
-Minh hoạ: ST
Đánh giáp là
cà -Minh hoạ: ST
Theo đó, chúng tôi cho rằng, “lá cà” là
cách gọi hình tượng của dân gian chỉ tấm “lá chắn” của chiến binh xưa. “Đánh
giáp lá cà” theo nghĩa gốc là cách đánh gần, khiến “lá cà” (thuẫn,
khiên, mộc) và võ khí hai bên “sát”, “giáp”, đâm vào nhau (khác với tấn công bằng
cung tên, súng đạn,..). Về sau “giáp lá cà” được hiểu theo nghĩa rộng mà từ điển
Vietlex giảng là: “đánh gần bằng báng súng, lưỡi lê, dao găm, gươm giáo, gậy gộc,
v.v., hoặc bằng tay không...”[4].
Hoàng Tuấn Công
4/2017
Ghi chú:
(1)- Theo mô tả của tác giả Nguyễn Việt Khoa
và Nhà giáo Trịnh Mạnh, “Lá cà là một bộ phận làm bằng đồng nhằm che ngực, che
bụng, che hạ bộ”, thì hẳn “lá cà” này phải chia (ít nhất) thành hai mảnh.
Bởi nếu kéo dài từ ngực qua bụng xuống hạ bộ”, thì người mặc áo giáp có
“lá cà” nó sẽ không cử động được. Mà một khi đã chia làm hai mảnh, thì nó sẽ là
hai bộ phận khác nhau, làm sao có thể gọi là “lá cà” được.
(2)-Trong
tình huống giáp lá cà, có khi hai bên cũng xông vào nhau cắn xé, vật lộn. Nhưng
đó không phải là hình ảnh tiêu biểu cho “đánh giáp lá cà”.
(3)-Ngoài hình
"lá cà", thì lá chắn có nhiều kiểu dáng khá phong phú, như: hình
tròn, bầu dục, hình chữ nhật...Nếu dân gian gọi chung tất cả các loại khiên, mộc,
thuẫn ấy là "lá cà", thì cũng là điều bình thường trong ngôn ngữ.
(4)-"Giáp lá
cà" là một trong những thành ngữ khá khó hiểu. Bài viết của chúng tôi cũng
chỉ là một trong nhiều cách tiếp cận. Mong tiếp tục nhận được ý kiến đóng góp của
bạn đọc và các nhà nghiên cứu.
Nhận xét
Đăng nhận xét