CẬU ẤM, CÔ CHIÊU
CẬU ẤM, CÔ CHIÊU
Sách “1575 thành ngữ, tục ngữ cần
bàn thêm” (Lê Gia), mục “Cậu ấm cô chiêu – Cậu ấm sứt vòi”, tác giả Lê Gia giảng
như sau:
“Chữ “ấm” (cũng đọc là “âm”):
Bóng mát. Sự che chở cho. Chữ “ấm” (cũng đọc là “ẩm”): Cho uống nước. Cho nên
ta cũng gọi cái bình tích thuỷ, cái nồi nấu nước là “cái ấm”. Chữ “chiêu”: Cái ấm
để nấu nước trà. Có người nói: “Chiêu từng miếng nước”; “cô chiêu”: Con gái nhà
quan lớn nhưng vì là con gái nên không được tập ấm. Nhưng vì chữ “ấm” có nghĩa
là bóng che và là cái ấm, cùng nghĩa với chữ “chiêu” là cái ấm, nên dù cô gái
không được “tập ấm”, không được gọi là “cô ấm”, thì nay gọi tạm là “cô chiêu”,
nó cũng có nghĩa là “cô ấm” (có danh, không có thực); “Cậu ấm sứt vòi”: Như
trên, cậu con trai này mang hai cái tên là “tập ấm” và “cái ấm”, nên nếu cậu là
người hư hỏng, bất tài thì ví cũng như cái ấm bị sứt mẻ mất cái vòi thành ra đồ
bỏ”.(*)
Theo chúng tôi, lời “bàn thêm” của
ông Lê Gia có một số điểm cần phải bàn lại như sau:
- Tác giả Lê Gia không chú
chữ Hán, nên không rõ ông nói về một chữ “ấm” với hai âm đọc, hay là hai chữ
khác nhau. Tuy nhiên, chữ “ấm” (mà Lê Gia giảng là “Bóng mát. Sự che chở cho”),
có tự hình 蔭,
nghĩa là: ① Bóng
cây, bóng rợp. ② Phàm
được nhờ ơn của người khác đều gọi là ấm. Như tổ ấm 祖蔭 nhờ phúc trạch của tổ tiên để
lại. Phép ngày xưa cứ ông cha làm quan to, con cháu được tập ấm ra làm quan, gọi
là ấm sinh 蔭生, ấm
tử 蔭子, ấm
tôn 蔭孫,
v.v.; trong khi chữ “ẩm” (Lê Gia giảng với nghĩa “cho uống nước”) lại có tự
hình飲,
nghĩa là: ① Đồ
uống. Như rượu, tương gọi là ẩm. ② Uống.
Như ẩm tửu 飲酒 uống
rượu, ẩm thuỷ 飲水 uống
nước, v.v. ③ Ngậm
nuốt. Như ẩm hận 飲恨nuốt
giận, nghĩa là mang mối hận âm thầm ở trong không lộ ra ngoài. ④ Một âm là ấm. Cho uống.
Như ấm chi dĩ tửu 飲之以酒 cho
uống rượu (“Hán Việt tự điển” – Thiều Chửu).
- Dù thế nào, thì cả hai chữ “ấm” 蔭 và “ẩm” 飲, đều không có nghĩa nào chỉ “cái ấm”,
mà “ấm” 蔭 trong
“cậu ấm” nghĩa là cháu con nhà quan được “tập ấm” (như Thiều Chửu đã giảng). Bởi
vậy, ông Lê Gia cho rằng, chữ “ấm” (trong “cậu ấm”) đọc là “ẩm” nghĩa là uống
nước, nên nó cũng có nghĩa là “cái ấm” là hoàn toàn suy diễn.
-Chữ “chiêu” trong “cô chiêu”
cũng không phải là “cái ấm để nấu nước trà” (vì có người nói “chiêu từng miếng
nước”, như Lê Gia suy diễn), mà do chữ “chiêu” trong “Chiêu văn quán” 昭文館 (“chiêu” 昭 = “hiển dương” 顯揚 (sáng sủa, rạng rỡ). “Việt Nam
tự điển” (Hội khai trí Tiến đức) giảng như sau: “chiêu: Tên gọi con ông tiến-sĩ
đời Lê, con các ông tiến-sĩ thì được dự vào học-sinh chiêu-văn-quán
<> Cậu chiêu, cậu ấm, v.v..”.
Triều Lê, (đời Hồng Đức) đặt ra
Sùng văn quán, Tú lâm cục. Con các quan từ Tam phẩm trở lên được tuyển vào Sùng
văn quán. Con các quan từ ngũ phẩm trở lên tam phẩm được tuyển vào Tú lâm cục
(Trạng lường Lương Thế Vinh từng được thăng Thị thư viện Hàn lâm, kiêm Sùng văn
quán và Tú lâm cục). Sau đời Hồng Đức, Sùng văn quán 崇文館, đổi làm Chiêu văn quán 昭文館. Văn bia đề danh tiến sĩ khoa Quý
Mùi niên hiệu Hồng Thuận năm thứ 6 (1514) chép: “Phụng trực đại phu Lại bộ Thượng
thư Tri Chiêu văn quán, Tú lâm cục Tư chính Thượng khanh Đàm Thận Huy…”.
Vì con các ông tiến sĩ gọi là
“chiêu”, nên Thi hào Nguyễn Du (con thứ bảy của Tiến sĩ Nguyễn Nghiễm), thời đi
học còn gọi là “cậu Bảy Chiêu”; Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (con thứ bảy của
Tiến sĩ Lê Hữu Mưu) cũng được gọi là “cậu Bảy Chiêu”.
Như vậy, “ấm” 廕 trong “cậu ấm” chỉ về lệ “tập ấm”
do triều đình ban cho con cháu các quan. Như “ấm tử” 蔭子 (con quan); “ấm tôn” 蔭孫 (cháu quan)…Còn “chiêu” lại chỉ
riêng các nho sinh con ông Tiến sĩ, được vào học ở Chiêu văn quán. Và “chiêu”,
trong “cậu chiêu”, vốn dùng để chỉ con trai các ông Tiến sĩ. Sau này, thành ngữ
“cậu ấm, cô chiêu” nhằm để chỉ cả con trai, con gái nhà quan nói chung. Thành
ngữ “cậu ấm sứt vòi” chẳng qua chỉ là cách chơi chữ, đồng nghĩa “ấm” 蔭 (trong “tập ấm” 襲蔭), với “ấm” (trong “ấm nước”) để chế
giễu, mỉa mai con cái nhà quan, được hưởng ân đức, bổng lộc của cha ông mà dốt
nát, hư hỏng, hoặc lớn lên khi gia cảnh đã thất thế (giống như “đích tôn”, giễu
thành “đít tôn”, “đít vại”…).
Ngày nay, “cậu ấm cô chiêu” còn
được dùng với nghĩa con cái các quan chức lãnh đạo, hoặc nhà giàu sang, quyền
quý, có địa vị, tiếng tăm trong xã hội.
Hoàng Tuấn Công
Ghi chú:
(*) “1575 thành ngữ, tục ngữ cần
bàn thêm” (Lê Gia - NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2009), là cuốn sách mà
trong đó, tác giả Lê Gia làm công việc “bàn thêm” để chỉ ra cái chưa đúng của
các soạn giả đi trước. Điều này rất cần thiết. Tiếc rằng, rất nhiều điều “bàn
thêm” của Lê Gia nặng về suy diễn chủ quan, kiến giải vô căn cứ, khiến vấn đề
có khi đang đúng lại trở thành sai. Cách giảng “Cậu ấm cô chiêu – Cậu ấm sứt
vòi”, là một ví dụ. (Chúng tôi sẽ có bài riêng viết về vấn đề này).
Nhận xét
Đăng nhận xét