Soi sức mạnh
dàn vũ khí 'make in Vietnam'
Sáng 2/9/2025, quảng trường Ba Đình tại Hà Nội bùng nổ với
những tiếng reo hò của hàng chục ngàn người dân khi lực lượng diễu binh, diễu
hành nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 tiến vào.
Ngoài điểm nhấn là màn diễu hành, diễu binh của các lực lượng quân nhân
khiến các chị em gào thét, thì nhiều ánh mắt cũng đổ dồn vào các phương tiện,
vũ khí thuộc khối xe pháo quân sự được quảng bá là do Việt Nam nghiên cứu, chế
tạo, sản xuất, nâng cấp, mà báo chí trong nước hết lời ca ngợi.
Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội khẳng định tên lửa đạn đạo chiến thuật
Scud-B (R17E) do Việt Nam cải tiến là "vua" tên lửa đạn đạo duy nhất
Đông Nam Á và kêu gọi "hãy chia sẻ để lan tỏa niềm tự hào về Tổ quốc Việt
Nam trong kỷ nguyên mới".
Sáng 2/9, báo Lao Động đưa tin rằng trong lễ duyệt binh A80, nhiều người
"không khỏi trầm trồ trước uy lực toát ra từ dàn vũ khí, khí tài của Quân
đội nhân dân Việt Nam".
Từ nhiều ngày trước đó, qua các buổi sơ duyệt, tổng duyệt, truyền thông
Việt Nam đã đồng loạt lên bài ca ngợi những chiếc xe tăng, xe thiết giáp, tên lửa,
UAV… "make in Vietnam".
Nếu bạn đã quen với cụm từ "Made in Vietnam", vốn gắn liền với
sản phẩm từ Việt Nam thì khẩu hiệu "Make in Vietnam" do chính quyền
khởi xướng nhằm thể hiện mong muốn có sự chuyển dịch mạnh mẽ từ lắp ráp, gia
công sang sáng tạo, thiết kế một cách chủ động.
Thực chất, sức mạnh của những vũ khí, khí tài này như thế nào? Và hàm lượng
"Việt Nam" trong các loại vũ khí này là bao nhiêu?
Dàn khí tài trong lễ diễu binh, diễu hành A80
Từ Thụy Điển, ông Siemon Wezeman, nhà nghiên cứu cấp cao của Viện Nghiên
cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI), nói với BBC News Tiếng Việt rằng hầu hết
những vũ khí, khí tài mà Việt Nam giới thiệu trong lễ diễu binh lần này không
phải là thiết kế mới.
Trong đội hình diễu binh năm nay, đi đầu trong khối xe, pháo quân sự tiến
vào lễ đài là khối xe tăng T54-B và T-55 do Liên Xô sản xuất.
Từ năm 2009, đã có thông tin về việc Israel giúp Việt Nam nâng cấp, cải
tiến tăng T54/55 về sức mạnh hỏa lực, thiết bị điện tử, giáp bảo vệ... phù hợp
với điều kiện chiến trường, thành mẫu T-54M3.
Tuy nhiên, Việt Nam từ chối và tự nâng cấp mẫu T54-B. Không rõ các hạng mục
nâng cấp xe tăng T-54B là gì, nhưng nhiều khả năng là được cải thiện về hệ thống
điều khiển hỏa lực (gồm các hệ thống kính ngắm mới), hệ thống thông tin liên lạc,
cải tiến về hỏa lực cũng như giáp bảo vệ.
Quân đội Việt Nam nói riêng và các quân đội trên thế giới nói chung thường
chỉ công bố những thông số căn bản, không công bố tất cả những đặc điểm của một
loại vũ khí, vì nó mang tính bí mật quốc phòng, hay "binh bất yếm
trá" trong nhà binh.
Đi sau khối xe tăng là khối xe thiết giáp được giới thiệu là do Tổng cục
Công nghiệp Quốc phòng sản xuất, trong đó phải kể đến xe chiến đấu bộ binh
XCB-01 và xe thiết giáp chở quân chiến đấu XTC-02.
Mẫu XCB-01 được trang bị pháo nòng trơn 73mm, súng phòng không 12,7mm,
súng đại liên 7,62mm và tên lửa chống tăng B72, trong khi mẫu XTC-02 được trang
bị súng máy phòng không 12,7mm và đại liên 7,62mm.
Theo truyền thông Việt Nam, những phương tiện này là "minh chứng
hùng hồn cho bước tiến vượt bậc của công nghiệp quốc phòng Việt Nam chủ động, tự
lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại".
Nhà nghiên cứu Siemon Wezeman cho biết xe chiến đấu bộ binh XCB-01 thực
ra là thiết kế của Liên Xô từ thập niên 1960, mà Việt Nam đã sở hữu từ khá lâu,
và dường như hiện chỉ đang được nâng cấp trong nước – chứ không phải sản xuất mới
hoàn toàn.
"Những nâng cấp này không mang tính đột phá, và không thể so sánh với
các sản phẩm hiện đại trên thị trường hiện nay trong cùng phân khúc," ông
Wezeman đánh giá.
Chuyên gia từ Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm cũng nhắc đến tổ
hợp tên lửa phòng không S-125-VT phiên bản do Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông
Quân đội Viettel nghiên cứu, cải tiến và hiện đại hóa.
Báo Dân Trí viết rằng, phiên bản hiện đại hóa nên S-125-VT có tính năng
vượt trội so với phiên bản tiêu chuẩn của tổ hợp Pechora, thậm chí có một vài
tính năng tăng gấp vài lần.
Thực chất, S-125 là thiết kế cũ của Liên Xô, đã được nâng cấp với sự hỗ
trợ từ Belarus.
"Ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam có tham gia vào việc cải tiến,
nhưng bản thiết kế nâng cấp chủ yếu đến từ Belarus. Dù phần lớn công việc nâng
cấp thực hiện tại Việt Nam, nhưng nhiều linh kiện có khả năng cao là được cung
cấp từ Belarus," ông Wezeman nhận định.
Một khí tài khác, cũng là sản phẩm của Viettel, là Tổ hợp phương tiện bay
không người lái bao gồm các UAV trinh sát phát hiện, nhận dạng mục tiêu với độ
chính xác cao và các UAV chiến đấu cấp chiến thuật có khả năng tấn công hiệu quả
các mục tiêu mặt đất.
Theo ông Wezeman, dường như phần lớn các mẫu UAV này là do Việt Nam thiết
kế, và có phần tương tự với những loại mà nhiều quốc gia khác đang phát triển.
Theo ông, dù đó chưa phải là những mẫu tiên tiến nhất khi so với thị trường
quốc tế, đây vẫn là một bước khởi đầu để ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam
có thể tiến xa hơn.
"Dù vẫn phụ thuộc vào linh kiện nhập khẩu, chẳng hạn như động cơ -
thứ mà Việt Nam chưa tự sản xuất được – và một số bộ phận khác, nhưng tôi sẽ
không ngạc nhiên nếu trong 10 năm tới, Việt Nam có thể tự sản xuất các UAV khá
tiên tiến, dựa trên thiết kế của chính mình, dù vẫn cần nhập một số linh kiện,"
nhà nghiên cứu này đánh giá.
Ngoài ra, không thể không nhắc đến tổ hợp tên lửa đạn đạo Scud-B với tên
lửa đối đất R-17E, một trong những khí tài được quan tâm nhất tại lễ duyệt diễu
binh, diễu hành A80.
Được biết, Việt Nam đã tiếp nhận tên lửa Scud từ Liên Xô vào năm 1981.
Báo chí trong nước cho biết các tên lửa này hiện đã được cải tiến, nhưng không
rõ mức độ cải tiến như thế nào.
Tên lửa Scud được đặt trên bệ phóng di động dựa trên khung gầm cơ sở xe vận
tải hạng nặng MAZ-543.
Với đầu đạn có sức công phá mạnh và tầm bắn tối đa 300km, vượt ngoài tầm
của pháo binh thông thường, Scud-B cho phép đánh vào các căn cứ hậu phương, sân
bay, cầu cảng hoặc trung tâm chỉ huy của đối phương mà không cần tiến sâu lực
lượng.
Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội khẳng định Scud-B của Việt Nam là
"vua" tên lửa đạn đạo duy nhất Đông Nam Á.
Thực ra, tên lửa Scud là vũ khí cũ kỹ, ra đời từ thập niên 1950. Các
phiên bản Scud-B/C/D ra đời sau với nhiều cải tiến.
Tại Đông Nam Á, Indonesia cũng sở hữu tên lửa đạn đạo, thậm chí hiện đại
hơn Việt Nam.
Theo thỏa thuận vào tháng 11/2022, Indonesia đã nhận tên lửa đạn đạo KHAN
của Thổ Nhĩ Kỳ hồi tháng 6 năm nay. Đây là loại tên lửa đạn đạo có tầm bắn và tốc
độ (Mach 5) tương đương Scud-B, nhưng có công nghệ hiện đại hơn, mới được sản
xuất từ năm 2017.
Năng lực công nghiệp quốc phòng của Việt Nam so với các nước
trong khu vực
Trong khu vực Đông Nam Á, ông Siemon Wezeman đánh giá rằng Việt Nam có
năng lực sản xuất vũ khí thấp so với các nước khác, chẳng hạn như Indonesia,
Thái Lan và Malaysia. Đặc biệt là Indonesia, nước đã sản xuất được máy bay
trong các dự án độc lập và hợp tác.
Nghiên cứu sinh tiến sĩ Nguyễn Thế Phương, chuyên gia về quốc phòng từ Đại
học New South Wales (Úc), có quan điểm ngược lại.
Trao đổi với BBC News Tiếng Việt, ông Phương đánh giá rằng năng lực công
nghiệp quốc phòng của Việt Nam đã tiệm cận với trình độ của khu vực, đặc biệt
những ngành sản xuất vũ khí cho lục quân thì Việt Nam "đứng hàng
top".
Nhà nghiên cứu Siemon Wezeman nhấn mạnh rằng điều quan trọng là dàn vũ
khí, khí tài được giới thiệu trong lễ duyệt binh cho thấy Việt Nam đang nghiêm
túc trong việc phát triển ngành công nghiệp quốc phòng.
"Đây là một chính sách đã được triển khai từ nhiều thập niên trước,
nhưng tiến độ không nhanh. Trong khoảng một thập niên trở lại đây, Việt Nam đã
có nhiều nỗ lực hơn trong việc tăng cường năng lực, phát triển các hệ thống vũ
khí - đặc biệt là nâng cấp những hệ thống cũ với công nghệ từ nhiều quốc gia
khác nhau, không phải từ nhà cung cấp ban đầu, mà là công việc thực hiện trong
nước," ông nói.
Thông thường, đây là bước đi đầu tiên của một ngành công nghiệp quốc
phòng: sản xuất theo giấy phép, sau đó nâng cấp, cải tiến, rồi phát triển lên.
Và rõ ràng là Việt Nam đang đi theo hướng này.
"Dù kết quả hiện tại vẫn chưa thể so sánh với công nghệ từ Trung Quốc,
Nhật Bản, Mỹ, hay thậm chí là Indonesia, nhưng đây vẫn là một bước đi đúng đắn
đối với Việt Nam," ông Wezeman bổ sung.
Ngoài lễ diễu hành, diễu binh, trong những năm gần đây, Việt Nam cũng giới
thiệu được năng lực sản xuất vũ khí nội địa qua hai kì Triển lãm Quốc phòng Quốc
tế Việt Nam (Vietnam Defence Expo) 2022 và 2024.
Theo ông Nguyễn Thế Phương, các loại vũ khí này đã được nghiên cứu từ
lâu, chẳng hạn tổ hợp tên lửa đối hải, tăng thiết giáp, hay xe chở quân… đã được
thai nghén từ giai đoạn 2013-2014, khi tình hình thế giới trở nên phức tạp hơn,
với Chủ tịch Tập Cận Bình lên nắm quyền ở Trung Quốc và cục diện Biển Đông căng
thẳng hơn.
"Quá trình phát triển những dự án đó đã có từ cách đây hơn 10 năm và
bây giờ mới thành hình, cho thấy nền công nghiệp quốc phòng Việt Nam ở thời điểm
hiện tại đã có mức độ trưởng thành nhất định và tiềm lực an ninh quốc phòng nội
địa đã được cải thiện," ông Phương nói.
"Ngoài ra, trong suốt khoảng 10 năm vừa qua, với một sự đầu tư tương
đối lớn thì hiện Việt Nam cũng đã nắm được một số công nghệ nền và công nghệ
lõi trong công nghiệp quốc phòng, mặc dù chưa phải ở mức độ quá tiên tiến,"
ông nói thêm.
Song các chuyên gia cũng lưu ý rằng, việc tiếp nhận công nghệ nước ngoài
là cực kì quan trọng. Sau khi được đầu tư lớn trong khoảng 10-15 năm trở lại
đây, Việt Nam đã thiết kế ngược (thuật ngữ 'reverse engineer' chỉ việc giải cấu
trúc một sản phẩm đang được sử dụng, tìm hiểu và sau đó sao chép, cải tiến) một
số công nghệ nước ngoài, đặc biệt là của Nga, chứ không phải xây dựng một số loại
công nghệ từ con số 0.
Hàm lượng Việt Nam
Nội địa hóa vũ khí, khí tài vẫn là một khái niệm gây tranh cãi. Khi nhắc
đến hàm lượng chất xám của Việt Nam trong một sản phẩm quốc phòng, cần xét đến
đó là hàm lượng công nghệ 100%, hay là học công nghệ từ nước ngoài rồi thiết kế
ngược, hay có sử dụng vật liệu từ các liên doanh với nước ngoài đặt tại Việt
Nam không.
Theo ông Nguyễn Thế Phương, Việt Nam có thể làm chủ toàn bộ chuỗi cung ứng
theo góc độ công nghiệp cho việc sản xuất vũ khí nội địa, từ xe tăng cho tới
tên lửa hay pháo tự hành.
"Việt Nam có thể tự chủ mua sắm, tiếp cận chuỗi cung ứng một cách tự
chủ, không bị phụ thuộc quá nhiều vào một nguồn cung nước ngoài," ông lý
giải.
Chuyên gia cho rằng, ở thời điểm hiện tại, hàm lượng Việt Nam chiếm khoảng
70-80%, thậm chí đến 90% trong các vũ khí, khí tài nội địa.
Nghiên cứu sinh tiến sĩ từ Đại học New South Wales dẫn chứng rằng để sản
xuất một chiếc xe tăng hoặc một xe thiết giáp, quân đội Việt Nam hiện đã chế tạo
được thép, dù không phải ở quy mô công nghiệp.
Bên cạnh đó, tập đoàn tư nhân Hòa Phát sắp tới cũng sẽ tham gia giúp việc
cung cấp thép trở nên tốt hơn.
Ngoài ra, cũng trên chiếc xe đó, ông cho rằng quân đội Việt Nam đã làm chủ
được hệ thống thông tin điện tử thông qua Viettel và các thành phần nhỏ khác.
Tuy nhiên, có một số công nghệ lõi mà Việt Nam vẫn chưa có khả năng làm,
thì phải nhập, có thể kể đến động cơ.
Nhà nghiên cứu Siemon Wezeman nhấn mạnh rằng Việt Nam hiện nay chưa thể tự
thiết kế và chế tạo động cơ trong cả các thiết bị lớn lẫn UAV, cũng như một số
bộ phận khác.
Nhưng ông cho rằng điều này là bình thường đối với bất kỳ quốc gia nhỏ và
tầm trung nào đang phát triển ngành công nghiệp quốc phòng.
Ngược với ông Nguyễn Thế Phương, nhà nghiên cứu này cho rằng hàm lượng nội
địa của Việt Nam tương đối thấp.
"Hàm lượng nội địa của Việt Nam hiện vẫn chưa cao và khó có thể đưa
ra một con số chính xác vì tôi chưa được xem bên trong các loại vũ khí đó.
Nhưng một lần nữa, ta đang nói đến một ngành công nghiệp quốc phòng mới phát
triển trong khoảng 20-25 năm gần đây."
"Đây là những bước đi đầu tiên: bắt đầu bằng việc sản xuất theo giấy
phép, sau đó nhập linh kiện, rồi dần dần tiến tới tự sản xuất và thiết kế nhiều
hơn.Cuối cùng, vẫn sẽ phải phụ thuộc vào nhập khẩu - ví dụ như động cơ."
"Vì vậy, có thể thấy Việt Nam đang nghiêm túc theo đuổi chính sách
phát triển ngành công nghiệp quốc phòng nội địa - nhằm đạt được một mức độ tự
chủ nhất định, không phụ thuộc vào các nhà cung cấp bên ngoài," chuyên gia
từ SIPRI kết luận.
Ông Nguyễn Thế Phương lại nhấn mạnh việc tiếp nhận công nghệ nước ngoài rồi
biến đổi cho phù hợp để tạo nên một sản phẩm có 70-80% hàm lượng Việt Nam là một
nước tiếp cận hợp lý.
"Ở đây không phải là mua công nghệ nước ngoài để rồi lắp ráp dựa
trên giấy phép, mà là tiếp cận công nghệ nước ngoài xong rồi 'reverse engineer'
lại và tạo ra một sản phẩm có hàm lượng công nghệ nước ngoài nhưng trong đó
cũng có chất xám của Việt Nam nữa," ông giải thích.
Ví dụ như hệ thống tên lửa đối hải Trường Sơn của Việt Nam, ông Phương
đánh giá đây không phải là một tên lửa hiện đại, vì đó là tên lửa cận âm trong
khi ở thời điểm hiện tại thì công nghệ tên lửa của thế giới đã là siêu âm và
siêu vực âm.
"Nhưng mà rõ ràng là việc tạo ra được một cái loại tên lửa gần như
70-80% của Việt Nam mặc dù công nghệ nó có thể thấp một tí, sẽ tạo điều kiện để
Việt Nam có thể tạo ra cái hệ thống tên lửa mạnh hơn với cái hàm lượng công nghệ
tối tân hơn trong tương lai," ông nêu quan điểm.
Việt Nam là một trong 20 quốc gia mua vũ khí hàng đầu thế giới, với ngân
sách nhập khẩu vũ khí hằng năm khoảng 1 tỷ USD và dự kiến sẽ còn tăng lên, theo
GlobalData, một nhà cung cấp thông tin tình báo về mua sắm quân sự.
Phần lớn số tiền đó trước đây chảy vào túi Nga, quốc gia trong nhiều thập
niên là nhà cung cấp vũ khí và hệ thống phòng thủ chính của Việt Nam.
Nhưng lượng vũ khí, khí tài mà Việt Nam nhập khẩu từ Nga đã giảm trong những
năm gần đây, khi Moscow không thể cung cấp cho Hà Nội những vũ khí, khí tài
tiên tiến, cũng như đối mặt với lệnh cấm vận từ phương Tây do cuộc xâm lược
Ukraine.
Do đó, quốc gia Đông Nam Á 100 triệu dân đang đẩy mạnh công nghiệp quốc
phòng, hiện đại hóa năng lực quân sự, đồng thời đa dạng hóa các nguồn cung vũ
khí, giảm bớt phụ thuộc vào Nga.
Suy cho cùng, với việc phô diễn những dàn vũ khí, khí tài "make in
Vietnam" trong lễ duyệt binh 2/9 năm nay, Hà Nội dường như mong muốn thể
hiện khả năng của ngành công nghiệp quốc phòng cũng như gửi đến thông điệp cho
người dân trong nước rằng quân đội có đủ khả năng bảo vệ đất nước.
Còn đối với nước ngoài, có lẽ đó là một thông điệp răn đe, rằng Việt Nam
với tiềm lực hiện tại có đủ khả năng để tiến hành bất cứ một hoạt động, chiến dịch
nào để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên đất liền lẫn trên biển.
Nhận xét
Đăng nhận xét