Chuyển đến nội dung chính
NHẤT NHẬT TẠI TÙ, THIÊN THU TẠI NGOẠI
 NHẤT NHẬT TẠI TÙ
THIÊN THU TẠI NGOẠI
Nhiều người biết câu ngạn ngữ trên có nghĩa là "Một
ngày ở tù bằng ngàn năm ở bên ngoài", song về câu này vẫn còn nhiều điều…
tò mò.
 
Trước hết, xin bàn về chữ tù, một từ Hán Việt, có nguồn gốc từ chữ 囚 (qiú) trong Hán ngữ.
 
Chữ tù (囚) xuất hiện lần đầu trong văn bản cổ Tam thể thạch kinh khắc vào thời Tào
Ngụy. Văn bản này còn gọi là Chánh thủy thạch kinh hay Ngụy thạch kinh, là tấm
bia đá ghi chép lại Kinh Thư và Kinh Xuân Thu bằng chữ tiểu triện và lệ thư.
 
Chữ tù (囚) ngày nay có cách viết từ Khải thư, hình thành hội ý, kết hợp từ 2 ký tự:
vi (囗: vây quanh) và nhân
 
(人: người). Chữ vi (囗) trông giống như nhà tù, giam cầm
con người (人) bên trong. Chữ này có cách viết dị thể là 𡆥.
 
Theo Tự nguyên của Lý Học Cần và Triệu Bình An, nghĩa gốc của tù là giam
cầm. Điều này được ghi rõ trong Sái trọng chi mệnh (Kinh Thư). Khi dùng như
danh từ, ký tự này ám chỉ tù nhân, một người bị giam giữ (Lễ kí. Nguyệt lệnh) về
sau mở rộng nghĩa thành "tội ác của tội phạm" (Hán Vũ cố sự). Ngoài
ra, tù còn có nghĩa là "kẻ thù bị bắt" (Tả truyện. Tuyên Công thập nhị
niên); "bao vây" (Hán thư. Mai Thừa truyện) hay "hạn chế, giới hạn"
(Đông Nhật của Mạnh Giao đời Đường).
 
Bây giờ, chúng ta thử ngược dòng thời gian để tìm hiểu câu Nhất nhật tại
tù thiên thu tại ngoại.
 
Từ nửa đầu thế kỷ 20, trong bài thơ Tứ cá nguyệt liễu (Bốn tháng rồi) của
Chủ tịch Hồ Chí Minh có 2 câu mở đầu như sau: Nhất nhật tù thiên thu tại ngoại;
Cổ nhân chi thoại bất sai ngoa (Một ngày tù, ngàn năm ở ngoài; Lời người xưa
nói không có sai), trích Nhật ký trong tù. Như vậy, Bác Hồ đã cho biết "Nhất
nhật tù thiên thu tại ngoại" là câu nói của người xưa chứ không phải do
Bác sáng tác.
 
Từ năm 1914 - 1915, nhà thơ Phan Châu Trinh bị thực dân Pháp bắt giam tại
ngục Santé ở Paris khoảng 10 tháng. Trong thời gian ở tù, ông sáng tác tập thơ
Santé thi tập bằng chữ Quốc ngữ, trong đó có bài nhan đề là Nhất nhật tại tù
thiên thu tại ngoại. Tuy nhiên, câu này cũng không phải do Phan Châu Trinh sáng
tác, vì từ năm 1877, tức trước đó 37 năm, quyển Dictionarium anamitico-latinum
(Từ điển tiếng Anamit-Latin) của Taberd Constans, do J.S. Theurel hiệu đính và
bổ sung đã cho thấy câu Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại (trong mục
"tù", tr.508).
 
Hiện nay chúng ta chỉ biết câu "Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại"
tương ứng với câu chữ Hán là 一日在囚千秋在外, chứ chưa có tài liệu nào cho biết nguồn gốc câu này xuất phát từ đâu,
do ai sáng tác. Chỉ biết rằng khái niệm nhất nhật (một ngày) và thiên thu (ngàn
năm) là từ chỉ thời gian vật lý, dùng để diễn tả thời gian tâm lý trong tâm trạng
của người tù.
 
Trong tiếng Nhật có thành ngữ nhất nhật tam thu (一日三秋, ichinichisanshuu), cũng dùng để
chỉ thời gian tâm lý, tuy nhiên không giống như người tù, thành ngữ này biểu thị
cho tâm trạng nhớ nhung của người đang yêu, một ngày mà ngỡ ba mùa thu.
 
Cuối cùng, cần nói rằng, thành ngữ nhất nhật tam thu mà người Nhật sử dụng
có nguồn gốc từ Trung Quốc, cụ thể là từ câu "Nhất nhật bất kiến như tam
thu hề" (一日不見, 如三秋兮), nghĩa là "một ngày không gặp dài như ba mùa thu" - trích từ
bài thơ Thái cát trong Vương Phong (Thi kinh). 
 
 
 
 
 
 
  
 
 
 
 
Nhận xét
Đăng nhận xét