Chuyển đến nội dung chính
ĐỒNG HỒ
ĐỒNG HỒ
Từ 'đồng hồ' xuất hiện trong tiếng Việt trễ nhất cũng từ thế
kỷ 19, đã từng được ghi nhận trong quyển Dictionarium latino-anamiticum (1838)
của Jean Louis Taberd: 'đồng hồ cát, đồng hồ có bánh xe, đồng hồ nước, đồng hồ
trái quýt' (tr.55).
Về chữ Nôm, đồng hồ từng xuất hiện trong câu: "Đêm đông trường đồng
hồ thánh thót" (𣈘冬 長 銅 壼 咱 説) - Ca trù thể cách, bản in theo ván khắc của Liễu
Văn Đường tàng bản, năm Thành Thái Canh Tý (1900).
Đồng hồ có nguồn gốc từ Hán ngữ, bao gồm 2 chữ:
Đồng (铜) là ký tự xuất hiện lần đầu trong văn bản thời Chiến Quốc, nghĩa gốc
dùng để chỉ một loại kim loại, thời cổ đại gọi là "xích kim" (赤 金) như trong Mặc Tử. Tạp thủ đã viết.
Hồ (壶) là ký tự được nhìn thấy lần đầu bằng chữ giáp cốt thời nhà Thương,
nghĩa gốc là vật chứa chất lỏng (Tả truyện. Chiêu Công thập tam niên). Thời cổ
đại, người ta chủ yếu dùng hồ để đựng nước và rượu, về sau mở rộng thành dụng cụ
đo thời gian bằng nước nhỏ giọt. Khi tiếp khách, người xưa còn dùng dụng cụ này
để giải trí cho khách.
Từ ghép đồng hồ (铜 壶) gồm 2 nghĩa chính:
a. Loại ấm bằng đồng, dùng để đựng rượu và nước, có 3 loại: ấm đồng đỏ
(loại tốt nhất), ấm đồng thau và ấm đồng trắng, thường được làm thủ công hoặc
đúc.
b. Dụng cụ đo thời gian, một loại đồng hồ cổ có hình dạng ấm đồng, có kiểu
dáng đặc trưng: cổ nhỏ, miệng loe, bụng phình ra, chân hình vòng, bên ngoài
trang trí hoa văn. Loại này kế thừa phong cách truyền thống thời Xuân Thu - Chiến
Quốc. Ấm tròn gọi là Chung (钟), ấm vuông gọi là Phương (方).
Trong văn chương cổ có nhiều bài đề cập đồng hồ, chẳng hạn như "Ngọc
lễ tùy thương chí, đồng hồ trục lộ hành" (Rượu ngon tùy theo chén, ấm đồng
rỉ từng giọt) - trích bài Nhạc Phủ của Cố Huống thời nhà Đường; hay câu
"Tĩnh thích đắc đồng hồ tích lậu, dạ nguyệt vi tàn" (Nghe ấm đồng nhỏ
giọt, trăng mờ ảo trong đêm) trong Bạch Tuyết dị âm thời nhà Thanh.
Đồng hồ (铜壶) bắt nguồn từ thành ngữ đồng hồ tích lậu (铜壶滴漏) trong bài Kê minh đại khúc của
Ôn Đình Quân thời nhà Đường - một cụm từ dùng để chỉ loại "ấm đồng đựng nước
nhỏ giọt để xem giờ", đồng nghĩa với thành ngữ đồng hồ khắc lậu (铜壶刻漏).
Ban đầu đồng hồ là từ dùng để chỉ loại "đồng hồ nước", sử dụng
nước chảy để tính thời gian, theo phép tính gọi là lậu hồ (漏壶) hay khắc lậu hồ (刻 漏 壶). Phương pháp tính giờ này được
ghi chép sớm nhất trong Chu Lễ (周 礼). Ban đầu chỉ có loại 2 ấm (hoặc bình, chậu) về sau tăng lên 4 hoặc 5 ấm,
nước nhỏ giọt từ ấm trên xuống ấm chứa dưới; mực nước khiến mũi tên nổi lên để
chỉ thang đo (tức là thời gian). Trong Quan thuật khắc lậu đồ (năm 1135) của
Vương Phổ Sở thời nhà Tống và Lục Kinh đồ (năm 1155) của Dương Quân thời nhà Tống
cho thấy những loại đồng hồ nước có hình dạng bình hoa sen.
Tóm lại, đồng hồ là từ gốc Hán, du nhập nước ta khoảng thời nhà Đường.
Người xưa gọi "đồng hồ nước" là thủy chung (水钟). Ngày nay, người Việt sử dụng từ
đồng hồ để chỉ dụng cụ đo thời gian, còn người Trung Quốc gọi là thời chung (时 钟, shízhōng),
Nhật Bản gọi là thời kế (時 計, tokei). Đối với người
Nhật, đồng hồ (銅 壺, dōko) thường được
hiểu là một bình bằng đồng giống như kamado (か ま ど), chủ yếu dùng để
hâm nóng rượu sake.
Nhận xét
Đăng nhận xét