Kỳ 160 -CHIÊM THÀNH CỨNG RẮN VỚI NGUYÊN MÔNG
Kỳ 160
ĐƯỢC ĐẠI VIỆT CỔ VŨ
CHIÊM THÀNH CỨNG RẮN VỚI NGUYÊN MÔNG
Giữa thế kỷ 13, khắp lục địa Á Âu chấn động bởi thế lực người Mông Cổ đến
từ thảo nguyên Trung Á. Thoạt nhiên nhìn vào bản đồ địa lý thời bấy giờ, địa
bàn Đông Nam Á ở cách xa người Mông Cổ vạn dặm. Nhưng rất nhanh chóng, lần lượt
những quốc gia hùng mạnh là Tây Hạ và Kim bị tiêu diệt. Kế đó, quân Mông Cổ tấn
công chiếm nhiều vùng rộng lớn của nước Tống, kiểm soát các vùng đất thuộc Tây
Tạng và tiến chiếm nước Đại Lý. Sau khi Đại Lý diệt vong, nước Đại Việt tiếp
giáp trực tiếp với đế quốc Mông Cổ. Trên đà bành trướng thuận lợi, gần như ngay
sau khi chiếm xong Đại Lý thì quân Mông Cổ đã tính đến chuyện thôn tính nước Đại
Việt, rồi dùng lãnh thổ Đại Việt làm một trong những bàn đạp tấn công nước Tống.
Trước thử thách mới cam go, hai nền văn minh Đại Việt và Chiêm Thành thời bấy
giờ đứng trước lựa chọn cùng nhau gạt bỏ bất đồng, đoàn kết lại để đối đầu với
những kẻ địch bên ngoài hoặc thỏa hiệp và trông chờ vào ân huệ của kẻ mạnh.
Cuộc chiến Việt - Chiêm từ năm 1252-1254 đã khiến thái độ của Chiêm
Thành đối với Đại Việt thay đổi. Vị vua mới lên ngôi sau cuộc chiến là Jaya
Indravarman VI đã nhận thấy được sức mạnh đáng gớm của nước Đại Việt. Nhưng hơn
thế nữa, triều đình Chiêm Thành cũng nhận thấy thiện chí của kẻ chiến thắng.
Nhà Trần tuy muốn kìm chế Chiêm Thành, những vẫn duy trì chủ quyền của nước
này. Đối với người Chiêm, thái độ của Đại Việt thân thiện hơn hẳn những gì mà
người Chân Lạp đã thể hiện trong những năm trước đó, dù cho Chiêm Thành là bên
gây chuyện trước dẫn đến chiến tranh. Sự cân bằng trong việc thể hiện binh uy
và đức độ của vua Trần Thái Tông là nền tảng hòa bình cho hai nước. Vua tôi
Chiêm Thành lúc bấy giờ vừa nể vừa sợ Đại Việt. Đến khi quân Mông Cổ sang đánh,
nước Chiêm Thành đã không thừa cơ gây hấn ở phía nam.
Đầu năm 1258, 5 vạn liên quân Mông Cổ - Đại Lý (thuộc Mông Cổ) dưới trướng
của tướng Ngột Lương Hợp Thai tấn công nước Đại Việt. Vốn tự tin vào sức mạnh
quân sự của mình, vua Trần Thái Tông quyết định thân chinh dẫn quân bày trận ở
Bình Lệ Nguyên để đợi giặc. Một cuộc chiến quy ước đã diễn ra ác liệt. Trong trận
này, kỵ cung Mông Cổ đã được dịp thể hiện những phẩm chất vượt trội của mình.
Quân Đại Việt với tượng binh hùng mạnh cũng không thể địch nổi những kẻ chinh
phục phương bắc. Vua Trần Thái Tông suýt bị tổn thương trong trận chiến. May nhờ
có sự liều chết của tướng sĩ, quyết định rút lui kịp thời và khả năng cơ động
cao của thủy quân, vua Trần Thái Tông mới thoát chết, cả nước có cơ hội chuyển
sang trạng thái chiến tranh, thiết lập thế trận toàn dân đánh giặc.
Với kế sách vườn không nhà trống của người Việt, quân Mông Cổ dù chiếm
đóng được kinh thành Thăng Long nhưng chỉ là một tòa thành trống rỗng không có
dân chúng, không có lương thực. Hạn chế của một đạo quân viễn chinh du mục lúc
bấy giờ lập tức thể hiện rõ nét. Việc đem theo quá ít ỏi lương thực dự trữ nhằm
đảm bảo tốc độ hành quân khiến quân Mông Cổ nhanh chóng rơi vào cảnh đói khát.
Cuối tháng 1.1258, quân dân Đại Việt tổ chức phản công toàn tuyến. Quân Mông Cổ
đại bại ở Đông Bộ Đầu, phải chạy dài. Đến trại Quy Hóa, đoàn quân của Ngột
Lương Hợp Thai lại trúng mai phục của tù trưởng Hà Bổng nên tổn thất nặng. Khi
đến hội quân ở Ngạc Châu (thuộc nước Tống) với cánh quân của Hốt Tất Liệt, Ngột
Lương Hợp Thai chỉ còn chừng 5.000 kỵ binh.
Chiến thắng oanh liệt trong lần đầu tiên đọ sức với Mông Cổ đã giúp Đại
Việt có được một quãng thời gian hòa bình để củng cố thêm sức mạnh trước mối đe
dọa vẫn còn thường trực. Trong lúc Đại Việt chiến đấu với quân Mông Cổ thì tại
Chiêm Thành lại có biến loạn. Vì cớ Jaya Indravarman VI là người đã thỏa hiệp với
quân Đại Việt chiếm đóng Chiêm Thành nên trong nước vẫn có những thế lực ngầm
chống đối. Năm 1257, sau khi quân Đại Việt rút khỏi Chiêm Thành không lâu thì
hoàng thân Chay Nuk, con trai của vua Jaya Paramesvaravarman II bị tử trận
trong cuộc chiến với Đại Việt trước đó đã tổ chức ám sát vua Jaya Indravarman
VI, đưa hoàng tử Pulyan Sri Yuvaraja, con trai của người chị vua Jaya
Indravarman VI lên nối ngôi, lấy hiệu là Jaya Sinhavarman VI. Đến năm 1266,
hoàng thân Chay Nuk lên kế vị lấy hiệu là Indravarman V. Các vua Chiêm Thành vẫn
theo đường lối hòa hảo với Đại Việt, và đề phòng với thế lực người Mông Cổ.
Vua tôi Chiêm quốc khi theo dõi tình hình chiến sự Tống - Nguyên đã đưa
ra quyết định cùng Đại Việt đoàn kết chống Nguyên Mông. Năm 1278, vua
Indravarman V phái sứ giả là Bồ Tinh, Bồ Đột sang Đại Việt thỏa thuận kết liên
minh. Trong trường hợp Chiêm Thành bị tấn công, Đại Việt cam kết sẽ cử quân
giúp đỡ. Đổi lại, Chiêm Thành cam kết chiến đấu với Nguyên Mông, không ngã theo
Nguyên Mông chống Đại Việt. Thỏa thuận này đóng vai trò khá quan trọng trong
chiến lược giữ nước của cả hai phía, giúp cả Đại Việt và Chiêm Thành có thể yên
tâm và chủ động hơn trước những yêu sách và đe dọa của Nguyên Mông sau đó.
Năm 1279, quân Nguyên thảm sát vua tôi nước Tống ở trận Nhai Môn, chính
thức diệt Tống. Hốt Tất Liệt liên tục cho đòi vua Đại Việt phải đích thân sang
chầu, đồng thời phải cho thân thích sang làm con tin. Bấy giờ ở Đại Việt, cuộc
chiến ngoại giao giữa Thượng hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông với các
sứ đoàn nước Nguyên diễn ra khá căng thẳng. Thực ra, song song với những chiêu
bài ngoại giao, Nguyên chủ Hốt Tất Liệt cũng đã sớm chuẩn bị cho những cuộc nam
chinh. Ngay từ khi lập nên triều Nguyên, Hốt Tất Liệt đã có mong muốn chiếm trọn
Đông Nam Á, từ cả vùng lục địa ra các nước hải đảo. Tham vọng bành trướng của
Nguyên Mông, thực sự là không hề có điểm dừng.
Tuy đánh giá vị trí của Đại Việt là cửa ngõ tiến xuống nam nhưng Nguyên
triều vẫn còn chần chừng vì sức mạnh của Đại Việt khá đáng gờm. Nhìn sang nước
Chiêm Thành, vua tôi nước Nguyên nhận thấy vị trí của Chiêm quốc nằm ở giữa
vùng, khi chiếm được có thể dùng làm bàn đạp mà tấn công Đại Việt từ cả hai mặt
bắc nam. Và điều quan trọng là Chiêm Thành yếu hơn Đại Việt nhiều. Vì thế, sau
khi cân nhắc thì Nguyên Mông đã thiên về quyết định đánh Chiêm Thành trước.
Năm 1280, sứ giả Nguyên Mông sang Chiêm Thành phong cho vua Indravarman
V làm “Chiêm Thành quận vương” và yêu cầu vua Chiêm phải sang chầu nước Nguyên.
Vua Indravarman V cũng theo chính sách của Đại Việt, niềm nở tiếp đón sứ Nguyên
nhưng nhất quyết không chấp nhận việc đích thân sang chầu Nguyên triều. Thái độ
của cả hai nước đối với Nguyên Mông khá nhất quán, vừa mềm mỏng tránh đối đầu,
nhưng cũng kiên quyết bảo vệ những giá trị cốt lõi của đất nước.
Năm 1281, lấy cớ Chiêm Thành chống lệnh, Hốt Tất Liệt ra lệnh lập Chiêm
Thành hành trung thư tỉnh, phong Toa Đô (Sagatou) làm Hữu thừa, Lưu Thâm làm Tả
thừa, Diệp Hắc Mê Thất (Yigmis) làm Tham tri chính sự lo việc chuẩn bị nam
chinh. Đến cuối năm 1282, 10 vạn quân Nguyên Mông với 1.000 chiến thuyền giương
buồm xuôi nam tiến đánh Chiêm Thành. Đây là một trong những đạo quân lớn nhất
trong suốt chiều dài lịch sử nước Chiêm Thành. Cuộc chiến này không chỉ là việc
của hai nước Nguyên - Chiêm Thành mà nó còn can hệ đến vận mệnh của một loạt
các nước trong khu vực. Nhất là đối với Đại Việt thì việc thành bại của quân
dân Chiêm Thành ảnh hưởng cực lớn đến thế trận chống Nguyên Mông.
Quốc Huy
Nhận xét
Đăng nhận xét