BỎ RƠI VIỆT NAM: 29-THAY ĐỔI CỤC DIỆN Ở QUÂN ĐOÀN I

 
BỎ RƠI VIỆT NAM:
29-THAY ĐỔI CỤC DIỆN Ở QUÂN ĐOÀN I
Khi các trận chiến ở An Lộc và Kontum diễn ra, QĐNDVN tiếp tục tấn công vào Quân khu I. Trong tháng 4, Quân đoàn VNCH đã đánh trả một số nỗ lực của Sư đoàn 324B Bắc Việt nhằm chiếm các tuyến tiếp cận phía tây và tây nam đến Huế. Những trận chiến này không có kết quả rõ ràng, nhưng quân phòng thủ miền Nam  đã xoay xở để tạo ra một tuyến phòng thủ ở chân đồi phía tây Huế kéo dài từ Trại Evans ở phía bắc, qua Căn cứ Yểm trợ Hỏa lực Rakkasan, sau đó về phía đông nam qua CCYTHL Bastogne và Checkmate để liên kết với CCYTHL Birmingham.  Bastogne và Checkmate là chìa khóa cho tuyến phòng thủ này vì chúng là lực lượng duy nhất đứng giữa  quân Bắc Việt ở phía tây và Huế. Trong hai tuần cuối tháng 4, các vị trí quan trọng này liên tục bị tấn công dữ dội khiến sức mạnh của QĐVNCH tại cả hai căn cứ hỏa lực chỉ còn dưới 50 phần trăm. Chỉ có sự hỗ trợ trên không chiến thuật mới ngăn được quân BV tràn vào các vị trí. Vào ngày 28 tháng 4, sức mạnh tấn công của Bắc Việt do trung đoàn 29 và 803 của Sư đoàn 324B QĐNDVN áp đảo lực lượng phòng thủ tại CCYTHL Bastogne; những người sống sót đã chạy về phía đông. Với sự sụp đổ của Bastogne, Checkmate trở nên dễ bị sụp đổ và lực lượng phòng thủ của nó đã được lệnh phải sơ tán. Việc mất hai căn cứ này đã khiến Huế phải đối mặt với một cuộc tấn công trực diện của địch.
 
Đến ngày 1 tháng 5, vị trí chiến lược của miền Nam đã trở nên cực kỳ bấp bênh.  Sau hơn một tháng giao tranh ác liệt liên tục kéo dài trên khắp đất nước, quân đội miền Nam đã gần như tan rã. Họ đã mất Quảng Trị, Tân Cảnh và Đắk Tô; Kontum phải đối mặt với một cuộc tấn công sắp xảy ra; và An Lộc đang ở giữa một trận chiến sinh tử. Sài Gòn bước vào giờ phút đen tối, và tinh thần quốc gia xuống mức thấp nhất mọi thời điểm. Tình hình đặc biệt ảm đạm ở Quân đoàn I; sự sụp đổ của Quảng Trị đã giáng một đòn tâm lý nghiêm trọng vào cả quân đội và người dân địa phương. Dòng người tị nạn kinh hoàng liên tục đổ về phía nam dọc theo Quốc lộ 1 hướng đến Đà Nẵng đã gây ra tác động làm suy yếu tinh thần binh lính bảo vệ Huế. Ngoài ra, hàng loạt lính đào ngũ và quân lính chán nản, một số từ các đơn vị không còn tồn tại, “lang thang khắp nơi, hốc hác, hỗn loạn và đói khát”; sự hiện diện của họ làm tăng thêm bầu không khí kinh hoàng và hỗn loạn đang ngự trị trên khắp Thành phố Huế..
 
Tổng thống Thiệu nhận ra mình đang có nguy cơ mất toàn bộ Quân khu I. Vì vậy, ông đã thay thế Tướng Lãm bằng Trung tướng Ngô Quang Trường, tư lệnh Quân đoàn IV ở Đồng bằng sông Cửu Long. Trưởng, một sĩ quan được kính trọng, trước đây đã phục vụ ở Quân khu I và biết rõ khu vực này. Khi đến khu vực này, ông đã lập tức thành lập một sở chỉ huy tiền phương tại Huế để đích thân chỉ huy trận chiến sắp tới. Cùng với cố vấn cấp cao của Hoa Kỳ, Thiếu tướng Frederic J. Kroesen (sau này được kế nhiệm bởi Thiếu tướng Howard H. Cooksey), Trưởng đã thực hiện các bước để ổn định tình hình, thiết lập các tuyến chỉ huy rõ ràng và phân công nhiệm vụ cho từng đơn vị cấp dưới của Quân đoàn I. Sử dụng ba lữ đoàn của Sư đoàn Thủy quân Lục chiến và hai trung đoàn của Sư đoàn 1, Trưởng đã thiết lập một tuyến phòng thủ sâu xung quanh Huế, tập trung vào việc ngăn chặn không cho quân địch tiếp cận từ phía tây và phía bắc. Đồng thời, ông tái lập quyền kiểm soát bên trong thành phố, khôi phục kỷ luật và trật tự, bắt giữ những lính bỏ trốn và đào ngũ, và hỗ trợ dân thường và người tị nạn. Trưởng đã yêu cầu và nhận được sự tăng viện dưới hình thức hai lữ đoàn nhảy dù, được tái triển khai từ các khu vực chiến đấu khác ở Quân khu II và III.
 
Sau khi Tướng Trưởng ổn định tình hình ở Quân khu I, ông ra lệnh cho lực lượng của mình mở một loạt các cuộc phản công hạn chế để khiến quân Bắc Việt mất cân bằng. Các hoạt động này, được tiến hành vào cuối tháng 5 và tháng 6 bằng các cuộc tấn công bằng trực thăng và đổ bộ đường biển, và được hỗ trợ bởi các cuộc không kích chiến thuật rất hiệu quả của Không quân Hoa Kỳ và máy bay tiêm kich-ném bom của Hải quân, đã đạt được kết quả mong muốn. Quân đội miền Nam đã thành công chiếm lại các căn cứ Bastogne và Checkmate, cùng một số khu vực quan trọng khác trước đây do quân BV chiếm giữ. Những thắng lợi này đã nâng cao đáng kể tinh thần của quân đội miền Nam trong khu vực. Vào ngày 21 tháng 5, quân BV tấn công các vị trí của Thủy quân Lục chiến dọc theo Sông Mỹ Chánh. Lực lượng TQLC trấn giữ ở đó, trong khi Sư đoàn TQLC  tiến hành một cuộc đổ bộ đường biển tại Mỹ Thụy, cách tuyến phòng thủ mười km về phía bắc, và một cuộc tấn công bằng trực thăng vào Cổ Lũy, cách bờ biển sáu km về phía tây.  Sau nhiều ngày hoạt động sau các tuyến của quân BV, TQLC đã trở lại vị trí của họ dọc theo Mỹ Chánh. Đến cuối tháng 5, Trưởng và lực lượng của ông đã giành lại thế chủ động và, với sự xuất hiện của một lữ đoàn nhảy dù tăng viện, khả năng phòng thủ của Quân đoàn I đã được khôi phục lại trạng thái tốt.
 
Trưởng đã thiết lập một chương trình tái trang bị và đào tạo lại để củng cố các đơn vị miền Nam vốn đã chịu tổn thất nghiêm trọng hoặc đã tan rã trong hai tháng đầu tiên quân BV tấn công. Thương vong và tổn thất về vật chất của QĐVNCH là rất nghiêm trọng. Riêng Lữ đoàn Thiết giáp 1 đã chịu 1.171 thương vong và mất 43 xe tăng M-48, 66 xe tăng M-41 và 103 xe bọc thép chở quân M-113. Ngoài tổn thất về xe tăng, Quân đoàn I đã mất 140 khẩu pháo, tương đương với 10 tiểu đoàn pháo binh.  Sư đoàn 3 chỉ còn lại một đội ngũ ít ỏi và hai trung đoàn còn lại cùng các tiểu đoàn biệt động đều đã mất ít nhất một nửa quân số ban đầu. Trưởng kêu gọi Sài Gòn hỗ trợ để tập hợp lại lực lượng của mình. Để đáp lại, Bộ Tư lệnh Hậu cần Trung ương QĐVNCH và MACV đã thực hiện những nỗ lực gần như phi thường trong việc thay thế các thiết bị đã mất. Trưởng đã ra lệnh một chương trình đào tạo tăng tốc cho số lượng lớn nhân sự đến để thay thế. Ông cũng chỉ đạo rằng một số đơn vị nhất định, chẳng hạn như Đội Xe tăng 20, phải trải qua quá trình tái đào tạo đơn vị.
 
Sau khi tái thiết lực lượng và ổn định tình hình chiến thuật, ông đã chuẩn bị một kế hoạch táo bạo để chiếm lại Quảng Trị.  Khi Trưởng trình bày kế hoạch của mình với Tổng thống Thiệu, ông được cho biết rằng nó quá tham vọng và thay vào đó, ông phải tiến hành một cuộc tấn công phá hoại hạn chế hơn. Bực tức với quyết định này, Trưởng trở về Huế trong tâm trạng rất chán nản. Ngày hôm sau, ông bay đến Sài Gòn và trình bày một lập luận mạnh mẽ hơn cho kế hoạch của mình, đảm bảo sự chấp thuận miễn cưỡng của Thiệu.
 
Vào ngày 28 tháng 6, Trương phát động Lam Sơn 72, một cuộc phản công hai mũi nhọn trong đó Sư đoàn Nhảy dù thực hiện cuộc tấn công chính dọc theo phía tây nam của Tuyến đường 1 hướng về La Vang, cùng với một cuộc tấn công hỗ trợ của Sư đoàn TQLC dọc theo Tuyến đường 555 hướng về Triệu Phong. Trong khi lính dù và thủy quân lục chiến tấn công về phía bắc, Sư đoàn 1 QLVNCH tiến hành các hoạt động để ghìm chặt lực lượng QĐNDVN ở phía tây nam Huế và Sư đoàn 2 QLVNCH tiến hành các hoạt động tìm kiếm và tiêu diệt ở các tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi.  Sư đoàn 3 QĐVNCH, sau khi hoàn tất việc tái thiết và trang bị, đã đảm nhận trách nhiệm bảo vệ Đà Nẵng.
 
Cuộc tấn công về phía bắc ban đầu đã có tiến triển, nhưng khi lực lượng miền Nam tiến đến sông Thạch Hãn, sức kháng cự của quân miền Bắc trở nên mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, vào ngày 7 tháng 7, các đơn vị nhảy dù đầu tiên đã đến vùng ngoại ô của Thành phố Quảng Trị. Quân BV phòng thủ đã phản ứng dữ dội và rõ ràng là họ đang có kế hoạch chiếm giữ thành phố đến người lính cuối cùng. Như Tướng Trưởng sau đó đã giải thích, “Thành phố Quảng Trị đột nhiên trở thành một ‘cause celebre’. . . một biểu tượng và một thách thức lớn.” Quyết tâm cố giữ thành phố bằng mọi giá, quân BV đã tăng cường phòng thủ, do đó đã ngăn chặn được cuộc tấn công của miền Nam. Đến lúc đó, các đơn vị của 6 sư đoàn BV đang chiếm đóng các tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Trưởng điều chỉnh kế hoạch, nhưng việc tái chiếm Quảng Trị trong điều kiện khó khăn như vậy đã trở thành một quá trình lâu dài và gian khổ kéo dài đến tận tháng 9.  Sử dụng hỗ trợ chiến thuật trên không, hỏa lực hải quân, pháo binh và B-52, quân đội miền Nam đã có thể tiếp tục tấn công, nhưng cuộc tiến công vẫn tẻ nhạt và tốn kém. Vào ngày 8 tháng 9, Trưởng, nhìn thấy cơ hội, đã ra lệnh một cuộc tấn công toàn diện của lực lượng nhảy dù và thủy quân lục chiến. Được hỗ trợ bởi một cuộc tấn công đổ bộ nghi binh trên một bãi biển phía bắc cửa sông Cửa Việt, lực lượng tấn công đã tiến triển chậm chạp nhưng đều đặn. Đó là một cuộc giao tranh ác liệt, và đến ngày 16 tháng 9, TQLC đã kéo cờ miền Nam lên tòa thành cổ ở trung tâm thành phố Quảng Trị.
 
Trong khi quân Bắc Việt tiến hành các cuộc tấn công quy ước, quy mô lớn ở các Quân khu I, II và III, họ đã thử một chiến thuật khác ở Đồng bằng sông Cửu Long. Khi các trận chiến ở các Quân khu khác bắt đầu diễn ra, tình hình ở Đồng bằng sông Cửu Long vẫn tương đối yên tĩnh. Sau chiến tranh, người ta xác định rằng chiến lược của Bắc Việt ở Đồng bằng sông Cửu Long có hai mặt.  Đầu tiên, quân  Bắc Việt muốn cầm chân lực lượng Quân đoàn IV (sư đoàn 7, 9 và 21 của QĐVNCH) để họ không thể được tái triển khai tăng viện cho các quân đoàn khác. Thứ hai, quân Bắc Việt muốn phá vỡ nỗ lực bình định ở Đồng bằng. Để thực hiện điều này, Bắc Việt đã di chuyển Sư đoàn 1 Bắc Viêt vào Campuchia, giáp với các tỉnh cực tây của Đồng bằng. Ngoài ra, hai trung đoàn địch khác, 18B và 95B, di chuyển về phía bắc từ Rừng U Minh đến Tỉnh Chương Thiện. Vào đầu tháng 4, ngay sau khi Sài Gòn ra lệnh cho Sư đoàn 21 của Quân Khu IV tiến về phía bắc đến Lai Khê ở Quân khu III để cố gắng mở Đường 13 đến An Lộc, lực lượng Cộng sản ở Đồng bằng bắt đầu tấn công các vị trí của miền Nam và lực lượng địa phương quân. Một tháng sau, lực lượng miền Nam còn lại ở đó đã giảm thêm khi Sài Gòn cũng tái triển khai Trung đoàn 15 của Sư đoàn 9 đến Quân khu III để hỗ trợ giải cứu An Lộc. Chỉ còn chưa đầy hai sư đoàn miền Nam để xử lý sự hiện diện ngày càng tăng của QĐNDVN ở Đồng bằng. Trong suốt phần còn lại của mùa hè, QĐNDVN tiếp tục gây áp lực lên các đơn vị Quân đoàn IV và lực lượng địa phương quân. Các trận chiến ở Đồng bằng sông Cửu Long không bao giờ đạt đến cùng quy mô và cường độ như những trận chiến diễn ra ở các quân khu khác, nhưng hành động liên tục đã trói chặt một số lượng đáng kể quân đội VNCH. Tuy nhiên, Thiếu tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, người thay thế Thiếu tướng Trưởng làm tư lệnh Quân đoàn IV khi Trưởng được giao quyền chỉ huy Quân đoàn I vào đầu tháng 5, vẫn có thể kiềm chế được quân Bắc Việt. Mặc dù có một số thành quả, nhưng QĐNDVN không thể đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc kiểm soát dân số; không một thị trấn nào ở Đồng bằng sông Cửu Long rơi vào tay Cộng sản.
 
Mặc dù giao tranh vẫn tiếp diễn trên tất cả quân khu trong suốt phần còn lại của năm, nhưng mức độ đã giảm đi rất nhiều và đến cuối tháng 9, Chiến dịch Nguyễn Huế đã phần lớn kết thúc. Quân đội miền Nam, mặc dù đã phải gánh chịu những thất bại nghiêm trọng lúc đầu, đã giữ vững; như Douglas Pike đã nhận xét, “QĐVNCH và thậm chí cả lực lượng địa phương quân đã đứng vững và chiến đấu như chưa từng có”. Thật không may cho Sài Gòn, QLVNCH không có đủ sức mạnh để đẩy lui lực lượng Bắc Việt còn lại ra khỏi lãnh thổ miền Nam, một tình huống sẽ khiến miền Nam phải trả giá đắt trong những tháng ngày sắp tới.
 
Người miền Nam đã chống trả được cuộc tấn công dữ dội của Quân đội Bắc Việt, nhưng phải trả giá rất đắt. Chỉ trong hai tháng đầu tiên của cuộc chiến năm 1972, miền Nam đã chịu tổn thất 12.000 người tử trận, 34.000 người bị thương và 15.000 người mất tích. Một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng hơn chỉ một trong những trận đánh lớn cho thấy, nếu bao gồm cả dân thường, công cuộc  phòng thủ đã khiến miền Nam phải trả giá đắt như thế nào. Ví dụ, tại An Lộc, cuộc pháo kích liên tục, ước tính lên tới hơn 78.000 quả đạn trong ba tháng, đã khiến thành phố gần như bị phá hủy hoàn toàn. Hơn 80.000 dân tị nạn đã phải rời bỏ nhà cửa của họ ở Tỉnh Bình Long và một số lượng tương tự đã chết hoặc mất tích. Những binh lính miền Nam phòng thủ An Lộc đã chịu 5.400 thương vong, trong đó có 2.300 người tử trận hoặc mất tích. Các cố vấn Hoa Kỳ tuyên bố rằng mọi quân nhân trong Sư đoàn 5 QĐVNCH đều bị thương vong; ngay cả những người sống sót cũng bị một hoặc nhiều vết thương trong quá trình giao tranh ở An Lộc. Như một cố vấn đã mô tả về thành phố sau trận chiến, “Những ngôi mộ, những chiếc xe bị cháy rụi và đống đổ nát là minh chứng câm lặng cho cường độ của trận chiến đã diễn ra ở đó.” Tình hình này lặp lại ở Quảng Trị và Kontum, nơi hầu như bị phá hủy hoàn toàn sau cuộc giao tranh dữ dội.
 
Bất chấp những tổn thất này, lực lượng miền Nam Nam và các cố vấn của họ, với sự hỗ trợ của không quân chiến thuật (xem Bảng 8), đã đánh bại một cách quyết liệt cuộc tổng tấn công của 14 sư đoàn quân BV. Theo ước tính, chỉ riêng trong trận  An Lộc, thương vong của quân BV là 10.000 bộ đội tử trận và 15.000 người bị thương. Theo ước tính của tình báo Đồng minh, tổng số QĐNDVN tử trận trong chiến đấu là hơn 100.000 người. Hơn 450 xe tăng, gần như toàn bộ lực lượng thiết giáp của QĐNDVN, đã bị phá hủy, cũng như vô số pháo binh, xe tải và các phương tiện khác.
 
Bảng 8. Các lượt xuất kích bằng máy bay cánh cố định ở Nam Việt Nam, từ tháng 3 đến tháng 6, 1972
 
----------------T 3       T 4       T 5       T 6
KQCT Mỹ 247     3.032    7.516  5.310
MBPK Mỹ   24        407       491     325
HQHK       128     4.683    3.247  2.040
TQLC Mỹ            537    1.381  1.937
KQCT VN 3.118   4.612   5.276  3.950
MBPK VN     31       292      310     182
B-52            689    1.608   2.223  2.207
Tổng      4.237   15.171  20.444 15.951
 
KQCT: Không quân chiến thuật
MBPK: Máy bay pháo kích
HQHK: Hải quân Hoa Kỳ
Nguồn: Colonel Donaldson D. Frizzell and Col. Ray L. Bowers, eds., Airpower and the 1972 Spring
 
Việc thẩm vấn tù binh miền  Bắc cho thấy mức độ thất bại của Cộng sản. Ví dụ, tại An Lộc, một tù nhân từ Trung đoàn 95C của Sư đoàn VC 9 báo cáo vào ngày 10 tháng 6 rằng trung đoàn chỉ còn lại 30 đến 40 người trong mỗi tiểu đoàn của y. Y nói rằng chỉ huy tiểu đoàn và tất cả các chỉ huy đại đội trong đơn vị của mình đã bị giết chết. Tình hình cũng tương tự như vậy ở các đơn vị Bắc Việt khác. Tù binh từ trung đoàn 141 và 165 của Sư đoàn 7 miền Bắc  báo cáo rằng đơn vị của họ đã bị tiêu diệt gần 100 phần trăm. Những tổn thất này đã lặp lại ở hầu hết các đơn vị của QĐNDVN, đặc biệt là những đơn vị tham gia vào các trận chiến ác liệt tại những nơi như Quảng Trị và Kontum. Tham mưu trưởng của Giáp, Tướng Văn Tiến Dũng, đã nói với cán bộ cấp cao của Trung ương Cục Miền Nam rằng họ đã chịu thương vong thảm khốc đến mức họ không thể tiến hành bất kỳ cuộc tấn công mới nào trong ba đến năm năm nữa.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến