BỎ RƠI VIỆT NAM:
71-QUỐC HỘI MỸ KHÔNG DUYỆT VIỆN TRỢ
Vào thời điểm này, Tổng thống Ford, được Henry Kissinger khuyến khích
nhưng bị cố vấn đối nội Robert Hartmann và Thư ký báo chí Ron Nessen ngăn cản,
đã ra trước phiên họp chung của Quốc hội vào ngày 10 tháng 4 để yêu cầu khoản
viện trợ quân sự bổ sung đầy đủ 722 triệu đô la và 250 triệu đô la khác cho viện
trợ kinh tế và cứu trợ người tị nạn. Ford khẳng định rằng thảm họa hiện tại ở
miền Nam là hậu quả của “sự không chắc chắn về viện trợ tiếp theo của Hoa Kỳ”,
vì việc cắt giảm viện trợ “báo hiệu sự miễn cưỡng ngày càng tăng của chúng ta
trong việc hỗ trợ quốc gia đang đấu tranh để tồn tại”. Ông yêu cầu Quốc hội
giúp ông “giữ lời hứa của Hoa Kỳ trên toàn thế giới”. Tổng thống nhấn mạnh rằng
viện trợ bổ sung cho Sài Gòn “phải nhanh chóng và đầy đủ” và nếu không hành động
sẽ chỉ dẫn đến “thảm họa sâu sắc hơn”. Ông yêu cầu Quốc hội phê duyệt dự luật
trước ngày 19 tháng 4, tức chỉ còn chín ngày nữa. Nếu có nghi ngờ về phản ứng có thể có của quốc
hội đối với yêu cầu viện trợ mới, thì nó đã nhanh chóng bị xua tan bởi phản ứng
tại chỗ đối với bài phát biểu của tổng thống. Không một tràng pháo tay nào chào
đón lời kêu gọi của Ford về viện trợ bổ sung cho Sài Gòn, và thậm chí hai đảng
viên Dân chủ đã bỏ ra ngoài giữa chừng bài phát biểu.
Bất chấp những nỗ lực của chính quyền, yêu cầu viện trợ bổ sung đã bị thất
bại ngay từ đầu. Các sự kiện ở Campuchia đã không giúp ích gì cho tình hình.
Khmer Đỏ cộng sản đã sẵn sàng tràn ngập Campuchia trong phút chốc. Hai giờ trước
khi tổng thống phát biểu trước Quốc hội, Đại sứ John Gunther Dean đã gửi điện từ
Phnom Penh yêu cầu khởi xướng Chiến dịch Eagle Pull (Đại bàng Rút), giai đoạn
cuối cùng của cuộc di tản của Mỹ khỏi thủ đô Campuchia. Sau năm năm Hoa Kỳ nỗ lực
và chi tiêu hơn một tỷ đô la vào Campuchia, vào sáng ngày 17 tháng 4, Khmer Đỏ
chiến thắng tiến vào Phnom Penh, kết thúc quá trình tham gia của Mỹ vào đất nước
này.
Những bóng đen về sự sụp đổ sắp xảy ra của Campuchia và thảm họa đang diễn
ra ở miền Nam lù lù hiện ra khi Quốc hội xem xét yêu cầu viện trợ quân sự của tổng
thống. Như các nhân viên Nhà Trắng đã dự đoán, ngay cả những người ủng hộ trước
đây của Hoa Kỳ về chính sách ở miền Nam, như Thượng nghị sĩ Byrd, một lần nữa
lên tiếng phản đối viện trợ mới cho Sài Gòn. Byrd tuyên bố rằng “bất kỳ hỗ trợ
quân sự bổ sung nào cho Campuchia hoặc miền Nam đều sẽ rơi vào tay những kẻ mà
chúng ta hiện đang chống đối” và bày tỏ “mối nghi ngờ rằng việc chi thêm tiền của
Hoa Kỳ, ngoại trừ cho mục đích nhân đạo, có thể làm thay đổi tiến trình của các
sự kiện”. Các nhà lập pháp khác thậm chí còn kiên quyết hơn. Dân biểu Abzug
(Dân chủ-NY) đã viết thư cho tổng thống, cáo buộc rằng “các chính sách sai trái
và sự can thiệp quân sự bất hợp pháp trong thập kỷ qua” của chính phủ Hoa Kỳ
“phần lớn là nguyên nhân gây ra hoàn cảnh bi thảm hiện tại của miền Nam”. Bà
yêu cầu Ford “ngay lập tức ngừng mọi viện trợ quân sự cho chính phủ đã mất uy tín
của Tổng thống Thiệu”.
Các đại diện của chính quyền đã bị thẩm vấn nghiêm khắc trong các phiên
điều trần của quốc hội về yêu cầu viện trợ. Ngoại trưởng Kissinger đã làm chứng
trước Ủy ban Tài chính Hạ viện, nói rằng “miền Nam không còn nơi nào khác để hướng
đến. Nếu không có sự giúp đỡ của chúng ta, miền Nam không còn hy vọng, ngay cả
trong việc điều chỉnh tốc độ diễn tiến của các sự kiện mà miền Nam đã dũng cảm
chống lại trong nhiều năm”. Ông cũng cảnh
báo rằng “nếu Hoa Kỳ tạo ra ấn tượng là mình bỏ rơi những người đã sát cánh hết
lòng với chúng ta trong một thời gian dài—mà không có một chút nỗ lực kiểm soát
tình hình, thì điều đó sẽ không giúp ích gì cho vị thế quốc tế của chúng ta”.
Những lời kêu gọi như vậy đã rơi vào những lỗ tai điếc.
Các quan chức chính quyền khác đã bày tỏ nỗi ngờ vực nghiêm trọng, cho dù cố gắng đưa ra
lý lẽ để xin thêm tiền. Khi Bộ trưởng Quốc phòng Schlesinger làm chứng, ông được
hỏi liệu quân miền Nam có thể giữ được lãnh thổ mà họ hiện đang chiếm đóng khi
họ có trang thiết bị và vũ khí được trang trải bằng yêu cầu bổ sung hay không.
Ông trả lời, “Chúng ta phải thừa nhận rằng khả năng là không cao… [nhưng] vẫn
có cơ hội”. Khi Tướng Weyand làm chứng về dự luật viện trợ bổ sung trước Ủy ban
Tài chính Hạ viện, ông được dân biểu Jamie Whitten của Mississippi hỏi, “Có cơ
sở nào cho yêu cầu của ông không ngoại trừ để duy trì một bộ mặt, có lẽ là trên
báo chí và trên các phương tiện truyền thông, khi chúng ta biết tỏng rằng hồi kết
là điều không thể tránh khỏi?” Weyand trả lời yếu ớt, “Vâng, thưa ông, để tôi
nói thế này: đôi khi phong cách theo đó chúng ta làm mọi việc, mà ông gọi là bộ
mặt, cũng đều quan trọng như bản chất.” Những lời điều trần như vậy không giúp
ích gì nhiều cho lập luận của chính quyền về gói viện trợ bổ sung. Không có gì
ngạc nhiên khi Quốc hội bác bỏ yêu cầu của tổng thống và sau đó tập trung sự
chú ý vào việc sơ tán dự kiến của công dân Hoa Kỳ. Khi chính quyền yêu cầu miễn
trừ các hạn chế pháp lý đối với lực lượng quân sự để công dân Việt Nam đã làm
việc cho Hoa Kỳ có thể được sơ tán cùng với người Mỹ, những thành viên theo chủ
nghĩa tự do ở cả hai viện đã lên án đề xuất này bằng những lời lẽ cực đoan nhất. Tại Hạ viện, Bella Abzug đã lớn tiếng tuyên bố:
“Luật này chỉ là cái cớ để Hoa Kỳ ở lại Việt Nam và sử dụng vũ lực quân sự nếu
cần thiết để duy trì quyền kiểm soát… để nếu chúng ta lỡ không thích những gì xảy
ra ở đó, chúng ta có thể một lần nữa can thiệp vào các vấn đề của quốc gia đó….
Nó chẳng khác một nghị quyết Vịnh Bắc Bộ mới.”
Một cuộc thăm dò của tạp chí Time vào ngày 14 tháng 4 đối với 30 nghị sĩ
đã đi thăm các quận của họ trong kỳ nghỉ lễ Phục sinh cho thấy nhiều cử tri của
họ đã “chán ngấy và mất hứng thú” với các sự kiện ở miền Nam. Một bài báo đi
kèm với cuộc thăm dò đã trích dẫn lời của đảng viên Dân chủ Don Bonker của
Washington, nhận xét, “Mọi người đã kiệt sức. Họ muốn chôn vùi ký ức về Đông
Dương. Họ coi đó là một chương bi thảm trong đời sống người Mỹ, và họ không muốn
tiếp tục dính líu vào đó nữa.” Theo bài
báo, điển hình cho những bình luận mà các nghị sĩ nghe được là lời nhận xét giận
dữ của Dan Merwin, một lính cứu hỏa ở Girard, Ohio, y đã nói về miền Nam Việt
Nam: “Họ đang đi xuống cống mà không chịu chiến đấu, và chúng ta đang bàn đến
việc gửi cho họ hàng trăm triệu đô la? Tôi không thể hiểu điều đó. Chúng ta ở
Tây Virginia có người đang chết đói.” Những thái độ như được mô tả trong bài
báo của Time và các tạp chí khác, cùng với lập trường hiếu chiến của Quốc hội,
đã phản ánh rõ ràng người miền Nam sẽ không thể nhận được thêm sự giúp đỡ nào từ
Hoa Kỳ.
Thiệu rất nản lòng vì chính quyền Ford không thể thuyết phục Quốc hội
thông qua dự luật viện trợ quân sự khẩn cấp. Trong một bài phát biểu được truyền
hình toàn quốc vào ngày 4 tháng 4, ông đổ lỗi cho mọi người về những thất bại
quân sự, quy kết những thảm họa cho sự phản bội của quân đội người Thượng
(trong lực lượng địa phương quân), sự hèn nhát và chủ nghĩa chủ bại trong lực
lượng vũ trang, âm mưu của các điệp viên nước ngoài, và thậm chí các chương
trình phát sóng của “các đài phát thanh nước ngoài như BBC và Đài Tiếng nói Hoa
Kỳ”. Thay vì đích thân chấp nhận một phần lớn trách nhiệm, ông sau đó đã chỉ
trích Hoa Kỳ vì đã không đến giúp đỡ miền Nam như hai tổng thống đã hứa. “Người
ta tự hỏi,” ông nói, “liệu những cam kết của Hoa Kỳ có đáng tin cậy không và liệu
lời nói của Hoa Kỳ có giá trị gì không.” Sau khi chỉ trích gay gắt người Mỹ,
Thiệu nói rằng chỉ có Hoa Kỳ mới có thể mang đến phép màu cứu vãn tình hình. Nếu
viện trợ của Hoa Kỳ tiếp tục đến “từng giọt một… chúng ta sẽ mất dần đất đai
vào tay Cộng sản Bắc Việt cho đến ngày chúng ta mất tất cả. Do đó, tôi hy vọng rằng người dân Mỹ và Quốc
hội Mỹ hiện đã thấy rõ tình hình thực tế… và hậu quả của những hành động của
mình trong hai năm qua và họ sẽ hỗ trợ
chúng ta theo cách thực tế hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn và đầy đủ hơn để chúng
ta có thể bảo vệ phần lãnh thổ còn lại của mình.”
Điều đó đã không xảy ra. Vận mệnh của Thiệu và đất nước ông đã sa sút đến
mức vào ngày 8 tháng 4 Trung úy Nguyễn Thành Trung, một phi công lái máy bay
chiến đấu F-5E của Không quân Việt Nam, thực hiện hai đợt ném bom vào Dinh Độc
Lập và sau đó bay đến sân bay Bắc Việt chiếm đóng tại Phước Long, nơi anh hạ
cánh trong sự chào đón nồng nhiệt dành cho một người hùng. Thiệu, từ lâu đã lo
sợ về khả năng xảy ra đảo chính, đã gần như điếng người bởi cuộc tấn công vào
dinh thự. Mặc dù sau đó được phát hiện
là một hành động biệt lập và không phải là một phần của cuộc đảo chính, vụ đánh
bom dinh tổng thống đã chứng minh rõ ràng tình hình đang bắt đầu vỡ vụn.
Nhận xét
Đăng nhận xét