23-QUÂN MIỀN BẮC QUYẾT ĐỊNH TẤN CÔNG
Bộ Chính trị Miền Bắc tại Hà Nội đã bắt đầu thảo luận về khả năng một cuộc
tổng tấn công tại Phiên họp toàn thể lần thứ 19 của Đảng Lao động vào tháng 12
năm 1970 và tháng 1 năm 1971, nhưng giới lãnh đạo đã chia rẽ về vấn đề này. Tổng
Bí thư Lê Duẩn và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người hùng của Điện Biên Phủ, nằm
trong số những người ủng hộ mạnh mẽ hơn cho một cuộc tổng tấn công. Lê Duẩn là
người miền Nam, người cho rằng việc khuất phục hoàn toàn miền Nam là con đường
đúng đắn duy nhất về mặt ý thức hệ cần theo đuổi. Có thể, như Tướng Dave Palmer gợi ý, động cơ
thúc đẩy cuộc tấn công của Giáp có thể là ông vẫn đang “cay đắng vì thất bại của
các cuộc tấn công năm 1965 và 1968” và đang tìm kiếm một chiến thắng quyết định
cuối cùng để giành chiến thắng trong cuộc chiến.
Tuy nhiên, Giáp và Lê Duẩn bị phe bảo thủ hơn do Trường Chinh lãnh đạo phản
đối, phe này muốn tập trung vào việc xây dựng lại miền Bắc trong khi hoãn mọi nỗ
lực thúc đẩy thống nhất với miền Nam. Cuối cùng, Giáp và Lê Duẩn đã chiến thắng.
Vào tháng 5 năm 1971, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp tại Hà Nội để thảo
luận về hậu quả của chiến dịch của quân miền Nam tại Lào. Giáp và Lê Duẩn hồ hởi
bởi các trải nghiệm của họ với quân đội miền Nam tại Lào. Trận Lam Sơn 719 dường như củng cố niềm tin của
QĐNDVN rằng, với vũ khí hiện đại và chiến thuật thông thường, họ có thể dễ dàng
đánh bại lực lượng vũ trang của miền Nam một khi lực lượng chiến đấu của Hoa Kỳ
đã rút lui. Những điểm yếu mà quân miền Nam ở Lào thể hiện—Sài Gòn thiếu lực lượng
dự bị chiến lược đáng kể và không có khả năng điều động lực lượng nhanh chóng
trong miền Nam—đều quá rõ ràng. Về hành
động có thể xảy ra của Hoa Kỳ chống lại bất kỳ cuộc tấn công nào được tính
toán, Bắc Việt nhận thức được rằng việc tiếp tục cắt giảm quân đội Hoa Kỳ sẽ đạt
đến điểm khi đó Hoa Kỳ sẽ không còn đủ lực lượng để tác động đến tình hình chiến
lược. Hơn nữa, Giáp và Lê Duẩn không nghĩ rằng tình hình chính trị ở Hoa Kỳ sẽ
cho phép Nixon tung ra bất kỳ lực lượng mới nào hoặc hỗ trợ miền Nam chiến đấu
một khi QĐNDVN phát động cuộc xâm lược.
Họ cũng cảm thấy Nixon, trong nỗ lực hòa hoãn với Liên Xô, sẽ miễn cưỡng
thực hiện bất kỳ biện pháp nào để ngăn chặn một cuộc tấn công có thể làm đảo lộn
các cuộc đàm phán kiểm soát vũ khí chiến lược. Vì những lý do này, Giáp và Lê
Duẩn tin rằng Bắc Việt có thể tấn công miền Nam với ít hoặc không có sự can thiệp
đáng kể nào từ Hoa Kỳ. Ngoài ra, họ nghĩ rằng một chiến thắng quân sự vang dội
của Bắc Việt sẽ làm bẽ mặt tổng thống Hoa Kỳ, phá hủy nền chính trị chiến tranh
của ông, và có lẽ sẽ làm thất bại nỗ lực tái tranh cử của ông vào tháng 11. Nếu
họ có thể gây ra thất bại cho Sài Gòn, thiệt hại cho chương trình Việt Nam hóa
và Học thuyết Nixon cũng có thể góp phần vào thất bại của tổng thống Hoa Kỳ. Vì
tất cả những đối thủ tiềm năng của Nixon trong cuộc bầu cử đều có vẻ ít nhiều
theo xu hướng đưa Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam, nên bất cứ điều gì họ có thể làm để
góp phần vào thất bại của ông ta đều là một điểm cộng. Cũng theo hướng này,
Trương Như Tảng đã viết sau chiến tranh rằng một mục tiêu bổ sung của cuộc tấn
công là thúc đẩy sự bất đồng chính kiến của phe phản chiến ở Hoa Kỳ.
Tình hình quốc tế cũng ảnh hưởng đến quyết định phát động cuộc tấn công của
Hà Nội. Các nhà lãnh đạo Bắc Việt đã theo dõi hoạt động ngoại giao đang phát
triển của Washington với Moscow và Bắc Kinh với một chút lo lắng. Họ không chắc
chắn những mối quan hệ nồng ấm này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến mối quan hệ
liên tục của miền Bắc với những nhà bảo trợ Cộng sản của mình, hoặc sự hỗ trợ
mà miền Bắc nhận được cho nỗ lực chiến tranh chống lại miền Nam. Do đó, một cuộc
tổng tấn công là phương tiện duy nhất có thể của Hà Nội để buộc phải giải quyết
theo các điều kiện của riêng mình.
Sau khi Bộ Chính trị quyết định phát động cuộc tấn công, các thành viên của
bộ đã tranh luận về câu hỏi khi nào cuộc tấn công sẽ bắt đầu. Các nhà lãnh đạo Bắc Việt đã lưu ý Thông báo
rút quân của Nixon, theo dõi lực lượng Hoa Kỳ rời khỏi miền Nam, và tính toán rằng
quân số Hoa Kỳ có thể sẽ giảm xuống dưới 65.000 vào tháng 4 năm 1972. Con số
này sẽ bao gồm các sở chỉ huy và các đơn vị hỗ trợ chiến đấu, nhưng chỉ có một
số ít tiểu đoàn chiến đấu và một số máy bay chiến thuật và trực thăng, một lực
lượng mà QĐNDVN coi là không đáng kể về mặt quân sự. Một số người trong Bộ
Chính trị lập luận rằng thời điểm hoạt động tốt nhất là chờ đến năm 1973, khi hầu
như toàn bộ quân đội Hoa Kỳ sẽ rời đi. Lê Duẩn và phe cánh ông đã bác bỏ lập luận
này, đưa ra lập luận mạnh mẽ rằng các chương trình bình định và Việt Nam hóa
đang bắt đầu cho thấy những dấu hiệu tiến triển. Họ cho rằng nếu những chương trình này được
phép tiếp tục không bị cản trở trong phần còn lại của năm 1972, Hoa Kỳ sẽ tiếp
tục bơm vũ khí và trang thiết bị vào miền Nam
và Quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ phát triển mạnh hơn, do đó khiến cho cuộc
chinh phục quân sự miền Nam trong tương lai sẽ trở nên khó khăn hơn nhiều. Lê
Duẩn và Giáp đã thành công trong việc thuyết phục các đồng chí của mình tại cuộc
họp của Quân Ủy Trung ương vào tháng 6 năm 1971 rằng họ không nên chờ đợi, và
sau đó Quân ủy đã quyết định “phát triển thế trận tấn công chiến lược của chúng
ta ở miền Nam để đánh bại chính sách ‘Việt Nam hóa’ của Mỹ, giành chiến thắng
quyết định vào năm 1972 và buộc đế quốc Mỹ phải đàm phán chấm dứt chiến tranh từ
vị thế thất bại”.
Sau khi quyết định phát động cuộc xâm lược vào năm 1972, các nhà hoạch định
sau đó phải xác định thời điểm chính xác. Như thường lệ, mùa gió mùa quyết định
thời điểm tốt nhất cho các hoạt động chiến đấu ở miền Nam. Nếu Bắc Việt đợi đến qua mùa xuân khô ráo mới
bắt đầu tấn công, những trận mưa như trút nước vào cuối tháng 5 có thể cản trở
nghiêm trọng các giai đoạn sau của chiến dịch. Một cân nhắc khác là việc phát
hiện lực lượng của họ trước khi xâm lược sẽ cung cấp các mục tiêu có lợi cho việc
hỗ trợ chiến thuật trên không của Hoa Kỳ; do đó, Bắc Việt càng đợi lâu trước
khi bắt đầu chiến dịch, họ càng khiến lực lượng của mình gặp nguy hiểm. Các nhà
lãnh đạo Cộng sản cũng muốn bắt đầu cuộc xâm lược kịp thời để có tác động tối
đa đến cuộc bầu cử Hoa Kỳ vào tháng 11, điều này chỉ có thể thực hiện được bằng
cách bắt đầu cuộc tấn công sớm hơn, thay vì muộn hơn. Cuối cùng, nếu họ có thể
gây ra thất bại cho miền Nam trong khi lực lượng Hoa Kỳ vẫn còn ở trong nước, Bắc
Việt có thể tuyên bố một chiến thắng quân sự trước người Mỹ bị sỉ nhục. Vì những
lý do này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định phát động cuộc tấn công
vào tháng 3 năm 1972.
Để chuẩn bị cho cuộc tấn công, Bắc Việt đã khởi xướng một “cuộc tấn công
hậu cần”. Lê Duẩn đã đến Moscow yêu cầu hỗ trợ dưới hình thức vũ khí và thiết bị
mới. Một lời kêu gọi cũng được gửi đến Bắc Kinh. Sau đó, Bắc Việt đã nhận được
một lượng lớn vũ khí hiện đại từ Liên Xô và Trung Quốc, bao gồm máy bay phản lực
chiến đấu MIG-21, tên lửa phòng không SAM, xe tăng T-54, pháo 130 mm, súng cối
160 mm, pháo phòng không 57 mm, và lần đầu tiên, tên lửa phòng không SA-7
“Strela” tầm nhiệt, bắn từ vai. Bắc Việt cũng bắt đầu tích trữ phụ tùng, đạn dược
và nhiên liệu với số lượng lớn hơn nhiều so với báo cáo trước đây.
Các sư đoàn quân dự bị chung của QĐNDVN cũng được lệnh di chuyển về phía
nam để vào vị trí cho cuộc xâm lược.
Nhận xét
Đăng nhận xét