BỎ RƠI VIỆT NAM:-18-KẾ HOẠCH CHIẾN DỊCH LAM SƠN 719

 
BỎ RƠI VIỆT NAM:
18-KẾ HOẠCH CHIẾN DỊCH LAM SƠN 719

Lam Sơn 719 là một hoạt động kết hợp giữa QLVNCH và Hoa Kỳ được tiến hành theo nhiều ràng buộc. Không có lệnh chung nào được thiết lập để kiểm soát hoạt động. Tổng chỉ huy mặt đất của chiến dịch tại Lào là Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh Quân đoàn I của QLVNCH. Người đồng cấp Hoa Kỳ của ông, Trung tướng James W. Sutherland, tư lệnh Quân đoàn XXIV, sẽ chỉ huy tất cả các lực lượng Lục quân Hoa Kỳ tham gia và điều phối hỗ trợ của Hoa Kỳ cho hoạt động. Tướng Lucius D. Clay Jr., tư lệnh Không quân số 7, sẽ chỉ huy và điều phối tất cả các nguồn lực của Không quân Hoa Kỳ hỗ trợ hoạt động.
 
Chiến dịch này sẽ là một cuộc tấn công phá hoại, được thiết kế không phải để chiếm và giữ các mục tiêu địa hình mà là để phá vỡ các kế hoạch của kẻ thù và ngăn chặn một cuộc tấn công mới.  Mục tiêu chính của Chiến dịch Lam Sơn 719 là chiếm Căn cứ 604 ở khu vực Tchepone, nằm tại ngã ba chiến lược của các tuyến đường tiếp tế dọc theo Đường mòn Hồ Chí Minh, cách biên giới với miền Nam khoảng 50 km. Sau khi chiếm được Tchepone, quân miền Nam sẽ chặn đường mòn và phá hủy các cơ sở hậu cần trong khu vực này trong suốt thời gian còn lại của mùa khô. Cuộc xâm lược thực sự vào Lào sẽ bắt đầu vào ngày 8 tháng 2 và kéo dài 90 ngày cho đến khi mưa gió mùa buộc phải cắt giảm các hoạt động. Trận tấn công sẽ được thực hiện bởi một lực lượng tinh nhuệ nhất của Quân miền Nam, bao gồm Sư đoàn 1, Lữ đoàn Thiết giáp 1, ba tiểu đoàn biệt động từ Quân đoàn I và hầu hết các sư đoàn Dù và Thủy quân Lục chiến cừ khôi, lực lượng dự bị chiến lược của Bộ Tổng tham mưu. Ban đầu, 16.000 quân miền Nam sẽ được tung ra khi chiến dịch được phát động; sau đó, quân tiếp viện sẽ tăng con số này lên 20.000.  Khoảng 10.000 quân tác chiến, kỹ thuật viên và các binh sĩ khác của Hoa Kỳ sẽ hỗ trợ chiến dịch từ Tỉnh Quảng Trị bên trong miền Nam.
 
Kế hoạch phức tạp này bao gồm bốn giai đoạn. Trong Giai đoạn I, Lữ đoàn 1 của Sư đoàn Bộ binh 5 Hoa Kỳ sẽ dọn sạch và bảo vệ Tuyến đường 9 từ Đông Hà đến biên giới Lào. Ngoài ra, lữ đoàn sẽ bảo vệ Căn cứ hỗ trợ hỏa lực Vandegrift, một căn cứ hỏa lực của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã bị bỏ hoang, và Khe Sanh, nơi một sở chỉ huy sẽ được thành lập để điều phối tất cả các cuộc tấn công bằng trực thăng, hỗ trợ trên không, hỏa lực pháo binh tầm xa và hỗ trợ hậu cần. Nhóm Công binh 45 của Hoa Kỳ sẽ sửa chữa sân bay tại Khe Sanh và chuẩn bị cho hoạt động vận tải C-130. Các công binh cũng sẽ sửa chữa Tuyến đường 9 đến biên giới Lào.  Đồng thời với hoạt động của Lữ đoàn 1, Sư đoàn Bộ binh 5, Sư đoàn Không vận 101 của Hoa Kỳ sẽ tiếp quản trách nhiệm cho khu vực hoạt động của Sư đoàn Bộ binh 1 của Quân miền Nam ở các tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên khi Quân miền Nam tiến vào Lào. Các lực lượng khác của Hoa Kỳ sẽ bảo vệ khu vực phía nam của DMZ và vùng tiếp giáp với biên giới Việt Nam – Lào. Một lực lượng đặc nhiệm Quân miền Nam từ Lữ đoàn Thiết giáp số 1 sẽ theo Lữ đoàn 1 của Sư đoàn Bộ binh số 5 và sau khi Khe Sanh được bảo vệ, sẽ di chuyển về phía tây bắc để bảo vệ sườn phía bắc. Phần của Hoa Kỳ trong Giai đoạn I có mật danh là Dewey Canyon II.
 
Một khía cạnh khác của Giai đoạn I là việc bố trí trước 6.500 quân từ Sư đoàn Nhảy dù và 3.000 lính Thủy quân Lục chiến. Máy bay chở hàng của Không quân Hoa Kỳ sẽ di chuyển những lực lượng này đến các sân bay tại Quảng Trị và Đông Hà. Giai đoạn I dự kiến ​​sẽ kéo dài từ năm đến tám ngày.
 
 Sau khi Đường 9 được bảo vệ, Giai đoạn II sẽ bắt đầu bằng một cuộc tấn công ba mũi của Quân miền Nam về phía tây dọc theo xa lộ đến Tchepone, được hỗ trợ bởi lực lượng không quân chiến thuật số 7 của Không quân Hoa Kỳ và trực thăng cùng pháo binh tầm xa của Quân đoàn XXIV Hoa Kỳ. Sư đoàn Nhảy dù miền Nam, được tăng cường bởi Lữ đoàn Thiết giáp số 1, sẽ thực hiện cuộc tấn công chính dọc theo xa lộ; chuyển quân trên bộ và các cuộc tấn công bằng trực thăng liên tiếp cuối cùng nhằm mục đích chiếm giữ A Lưới, giao lộ của Đường 9 và 92. Sau khi chiếm được mục tiêu ban đầu, Sư đoàn Nhảy dù sẽ được không vận xuống Tchepone trong khi lực lượng thiết giáp tiếp tục tấn công bằng đường bộ để liên kết với lực lượng nhảy dù tại Tchepone. Các bên sườn của cuộc tấn công chính sẽ được bảo vệ ở phía nam bằng một cuộc tấn công song song do Sư đoàn Bộ binh số 1 của miền Nam tiến hành, lực lượng này sẽ thiết lập các căn cứ hỏa lực trên vùng đất cao phía nam Đường 9 giữa A Lưới và Tchepone.  Ở phía bắc,  sườn của miền Nam sẽ được bảo vệ bởi Nhóm Biệt động số 1, đơn vị này sẽ tiến hành các cuộc tấn công bằng trực thăng để thiết lập các vị trí chặn nhằm ngăn kẻ thù di chuyển về phía nam cản trở cuộc tấn công chính dọc theo xa lộ. Các trực thăng tấn công của Phi đội 2 Hoa Kỳ, Trung đoàn Kỵ binh số 17 (Không quân), sẽ định vị và phá hủy vũ khí phòng không, tìm nơi tập kết của kẻ thù và thực hiện các nhiệm vụ trinh sát và an ninh, bao gồm giải cứu phi hành đoàn bị bắn rơi ở Lào.  Một lữ đoàn Thủy quân Lục chiến Việt Nam sẽ được giữ làm lực lượng dự bị tại Khe Sanh. Hai ngày trước khi bắt đầu Giai đoạn II, lực lượng hỗ trợ không quân chiến thuật của Hoa Kỳ sẽ bắt đầu một chiến dịch ném bom tập trung (kéo dài từ ba đến bảy ngày) để ức chế hệ thống phòng không của kẻ thù.
 
 Giai đoạn III, sẽ bắt đầu sau khi chiếm được Tchepone, kêu gọi Quân đội miền Nam tiến hành các nhiệm vụ tìm kiếm và tiêu diệt tại Khu vực căn cứ 604 và khắp khu vực phía nam Tchepone. Sư đoàn Nhảy dù sẽ thiết lập các vị trí chặn ở phía tây bắc Tchepone dọc theo Tuyến đường 91 và phía đông nam Tchepone dọc theo Tuyến đường 9 để cô lập khu vực này. Đồng thời, Sư đoàn Bộ binh số 1 sẽ tiến hành các hoạt động tìm kiếm và tiêu diệt tại khu vực được giao phó ngay phía nam Sông Xe Pon, trong khi Nhóm Biệt động số 1 sẽ tiếp tục các vị trí chặn và sàng lọc ở sườn phía bắc. Lực lượng miền Nam sẽ bị giới hạn trong một hành lang không rộng hơn 15 dặm ở cả hai bên Đường 9 và không được thâm nhập sâu hơn Tchepone.
 
Giai đoạn IV, giai đoạn cuối cùng, giải quyết việc rút quân của lực lượng miền Nam khỏi Lào. Việc rút quân sẽ được thực hiện theo một trong hai cách, tùy thuộc vào tình hình tại thời điểm đó. Theo phương án đầu tiên, Sư đoàn Nhảy dù sẽ rút trực tiếp về phía đông dọc theo Đường 9 để yểm trợ cho một cuộc tấn công về phía đông nam vào Khu vực Căn cứ 611 của Sư đoàn Bộ binh 1 khi nó tiến về miền Nam. Phương án thứ hai là cả hai sư đoàn tấn công vào Khu vực Căn cứ 611. Cả hai phương án đều bao gồm các điều khoản cho phép cài các lực lượng QLVNCH ở lại phía sau và quấy rối kẻ thù ở Khu vực Căn cứ 604 và 611 sau khi lực lượng chính của quân đội miền Nam đã rút lui.
 
Kế hoạch cũng bao gồm một giai đoạn đánh nghi binh.  Trong một nỗ lực đánh lạc hướng Bắc Việt về cuộc tấn công chính, một lực lượng đặc nhiệm hải quân, chở theo Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ từ Đơn vị đổ bộ Thủy quân lục chiến số 31 và bao gồm hai tàu sân bay, sẽ tiến vào Vịnh Bắc Bộ, cách thành phố cảng Vinh ở Bắc Việt bảy mươi km. Nhiệm vụ của lực lượng đặc nhiệm này là giả vờ tấn công đổ bộ vào Vinh để thu hút sự chú ý của Bắc Việt khi lực lượng miền Nam tiến vào Lào. Phần này của kế hoạch dường như đã thành công: lực lượng đặc nhiệm đổ bộ ở Vịnh Bắc Bộ thực sự đã thu hút được sự chú ý của bộ tư lệnh cấp cao Bắc Việt, giúp lực lượng tấn công miền Nam có một vài ngày nghỉ ngơi sau một nỗ lực tăng viện lớn của Quân đội Nhân dân tại Lào.
 
Vì người ta tin rằng các ổ gián điệp Cộng sản đang hoạt động trong bộ tư lệnh cấp cao QLVNCH, Abrams đã chỉ đạo số lượng nhân sự tham gia vào kế hoạch tác chiến chung phải được giữ ở mức tối thiểu. Các đơn vị sẽ tham gia vào chiến dịch này không được thông báo cho đến ngày 17 tháng 1, và Sư đoàn Nhảy dù, đơn vị được lên lịch chỉ huy cuộc tấn công, không được cung cấp kế hoạch chi tiết cho đến ngày 2 tháng 2, ít hơn một tuần trước Ngày D theo lịch trình là 8 tháng 2. Trong nỗ lực ngăn chặn việc đưa tin sớm về chiến dịch này trên báo chí, MACV đã thông báo tóm tắt cho các phóng viên Hoa Kỳ về chiến dịch sắp diễn ra và sau đó áp đặt lệnh cấm vận ngắn hạn đối với việc đưa tin về các hoạt động di chuyển quân cho đến khi chiến dịch thực sự được triển khai. Điều này chứng tỏ là một động thái tồi tệ, vì việc áp đặt lệnh cấm vận tự nó là dấu hiệu của một chiến dịch sắp diễn ra. Mặc dù lệnh cấm vận đã được dỡ bỏ vào ngày 4 tháng 2, nhưng thông tin đã bị rò rỉ và những câu chuyện suy đoán về một cuộc tấn công sắp xảy ra của đồng minh vào Lào đã xuất hiện trên các tờ báo Hoa Kỳ và quốc tế.
 
Mặc dù gặp khó khăn trong việc giữ bí mật về chiến dịch này, Hoa Kỳ và các chỉ huy miền Nam rất lạc quan về kết quả tiềm năng của kế hoạch đầy tham vọng này. Đại tá Arthur W. Pence, cố vấn cấp cao của Sư đoàn Nhảy dù, đã báo cáo sau chiến dịch: “Rõ ràng là vào thời điểm này . . .Tình báo cảm thấy rằng chiến dịch này sẽ bị chống đối yếu ớt và việc chuẩn bị trận địa trong hai ngày trước Ngày D bằng không quân chiến thuật sẽ vô hiệu hóa hiệu quả khả năng phòng không của đối phương, mặc dù đối phương được cho là có đến 170 đến 200 vũ khí phòng không có cỡ nòng khác nhau trong khu vực hoạt động. Mối đe dọa từ xe tăng được coi là tối thiểu và khả năng tăng viện được tính là 14 ngày cho hai sư đoàn từ phía bắc DMZ.”
 
Các chỉ huy và nhà lập kế hoạch của Hoa Kỳ và miền Nam dường như táo bạo hơn sau thắng lợi khiêm tốn của cuộc xâm nhập Campuchia.  Tuy nhiên, ba điểm khác biệt đáng kể giữa cuộc tấn công vào Lào và cuộc xâm nhập Campuchia đã ảnh hưởng lớn đến kết quả cuối cùng của Lam Sơn 719. Mặc dù đây là một chiến dịch kết hợp và Quân đoàn XXIV của Hoa Kỳ sẽ cung cấp hỗ trợ hậu cần, pháo binh tầm xa và trực thăng, nhưng quân nhân Hoa Kỳ bị cấm hoạt động trên bộ tại Lào. Không chỉ không có quân tác chiến Hoa Kỳ đi cùng lực lượng miền Nam, như ở Campuchia, mà còn không có cố vấn Hoa Kỳ nào đi cùng quân đội miền Nam khi họ tiến vào Lào. Lần đầu tiên, hầu hết quân đội miền Nam sẽ tham chiến mà không có các đối tác Hoa Kỳ, những người mà họ vốn đã quen dựa dẫm vào để phối hợp không quân, trực thăng tấn công, pháo binh tầm xa và hỗ trợ hậu cần của Hoa Kỳ. Tại Lam Sơn, một khi họ vượt biên qua Lào, lực lượng miền Nam sẽ phải một mình chống lại quân BV.  Sự khác biệt thứ hai giữa chiến dịch Lào và cuộc thâm nhập Campuchia là địa hình và, ở một mức độ lớn, thời tiết sẽ đóng vai trò chính trong kết quả của trận chiến. Trong khi địa hình ở Campuchia tương đối dễ qua lại, thì địa hình mục tiêu của Lam Sơn 719 lại gồ ghề, bao phủ dày đặc cây bụi rậm rạp và dọc theo Sông Xe Pon, song song với Tuyến đường 9 về phía nam, là rừng rậm hai tán. Bản thân Tuyến đường 9 là một con đường chưa được cải thiện, nhiều chỗ không tốt hơn đường xe ngựa bao nhiêu. Địa hình cao khiến cho lực lượng phòng thủ địch chiếm được ưu thế trên đường cao tốc ở cả hai bên. Thời tiết cũng là một yếu tố quan trọng. Vào thời điểm diễn ra chiến dịch, gió mùa đông bắc vừa kết thúc và thời tiết phi hành sẽ rất kém, thường hạn chế các hoạt động bay của trực thăng và máy bay cánh cố định. Ngoài ra, khu vực này thường chịu lượng mưa không liên tục, đôi khi có thể rất cao và cản trở xe bọc thép đi qua.  Do đó, địa hình và thời tiết sẽ gây bất lợi cho phe tấn công trong chiến dịch này.
 
Sự khác biệt chính thứ ba giữa Chiến dịch Lam Sơn 719 và chiến dịch Campuchia là lần này, mặc dù tình báo ước tính ngược lại, nhưng kẻ thù sẽ ở lại và chiến đấu. Sau trận chiến, người ta biết rằng QĐNDVN từ lâu đã nghi ngờ một cuộc tấn công của QLVNCH vào Lào giáp với Quân khu I và đã bắt đầu chuẩn bị để chống lại động thái như vậy ngay từ tháng 10 năm 1970, khi lực lượng của họ đã bắt đầu xây dựng các công sự phòng thủ, chuẩn bị các địa điểm phục kích, tính toán trước các tọa độ pháo vào các khu vực đổ bộ tiềm năng của quân đồng minh và tái bố trí nguồn cung cấp và đạn dược. Vào thời điểm quân miền Nam phát động chiến dịch, hơn 22.000 bộ đội BV đã có mặt ở khu vực xung quanh Tchepone, và Hà Nội, sau khi ra lệnh giữ vững Căn cứ 604, đã gửi thêm quân tiếp viện, đưa tổng số quân địch lên hơn 36.000. Đến cuối chiến dịch, Bắc Việt đã tung các đơn vị của 5 sư đoàn có thiết giáp và pháo binh hỗ trợ vào trận chiến.
 
Theo Tướng Bruce Palmer, Abrams nhận thức rõ về  những nguy hiểm tiềm tàng do sự khác biệt giữa cuộc tấn công Campuchia và Lam Sơn 719 gây ra. Chiến dịch này có thể trông rất giống “cử một cậu bé đi làm công việc của một người lớn” trong một môi trường cực kỳ thù địch, nhưng vị chỉ huy Hoa Kỳ đã trông cậy rất nhiều vào các cuộc không kích B-52 của Hoa Kỳ, hỏa lực càn quét của không quân chiến thuật Hoa Kỳ và khả năng cơ động chiến thuật do trực thăng tấn công của Hoa Kỳ cùng với trực thăng hộ tống vũ trang được cung cấp để “cân bằng tỷ lệ cược” cho miền Nam. Sau đó, Palmer mô tả tình hình là “một canh bạc lớn. Thất bại sẽ đặt Việt Nam hóa vào một câu hỏi nghiêm trọng và có thể dẫn đến việc  giữ quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam lâu hơn, hoặc tạo ra áp lực  trong nước mạnh đến nỗi  Hoa Kỳ phải bỏ rơi đồng minh bất hạnh của mình.”
 
Nếu kế hoạch thành công, nó sẽ là một khích lệ cho miền Nam và xác nhận quá trình Việt Nam hóa, nhưng nếu có bất cứ điều gì không ổn, thì đó sẽ là một thảm họa cho cả miền Nam và Hoa Kỳ.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến