Trong khi lực lượng miền Nam ở Quảng Trị và An Lộc chiến đấu để sống còn
trước các cuộc tấn công ban đầu của QĐNDVN trong quân khu của họ, Trung tướng
Ngô Dzu, tư lệnh Quân đoàn II, và cố vấn của ông, John Paul Vann, đã chuẩn bị
cho những gì họ chắc chắn sẽ là một cuộc tấn công sắp xảy ra của Cộng sản ở
Quân Khu II. Họ đã theo dõi sự gia tăng quân địch ở vùng căn cứ 609 trong vùng
biên giới ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào kể từ đầu năm và ngày càng lo ngại
trước các báo cáo về xe tăng, pháo hạng nặng và vũ khí phòng không được nhìn thấy
di chuyển qua khu vực.Theo đó, họ đã
kêu gọi B-52 và các cuộc không kích chiến thuật đánh vào vùng căn cứ và bắt đầu
tăng cường phòng thủ các thủ phủ của tỉnh Kontum và Pleiku. Đầu tháng 2, họ đã
di chuyển Sư đoàn bộ binh 22 và Trung đoàn 47 từ căn cứ hậu phương của họ ở tỉnh
Bình Định đến khu vực Tân Cảnh-Đăk Tô để gia nhập Trung đoàn 42, đã được triển
khai ở đó một thời gian. Mục đích của động thái này là đặt phần lớn sư đoàn
QĐVNCH vào giữa các khu vực tập kết của QĐNDVN và thị trấn Kontum. Trong khi Dzu và Vann chuẩn bị để chống lại cuộc tấn công sắp xảy ra của
BV, các lực lượng Cộng sản đã sẵn sàng để mở cuộc tấn công vào Quân khu II. Dưới
quyền kiểm soát của Mặt trận B-3, các sư đoàn 2, 3 và 320 của QĐNDVN, tổng cộng
hơn 20.000 quân và 400 xe tăng yểm trợ, đã chiếm giữ các vị trí xuất kích. Mặc
dù các cuộc chạm trán với địch tăng lên vào tháng 2 và đầu tháng 3, quân Bắc Việt
vẫn chưa mở một cuộc tấn công toàn diện. Vào ngày 30 tháng 3, quân Bắc Việt bắt
đầu khai hỏa pháo hạng nặng vào các căn cứ yểm trợ hỏa lực dọc theo khu vực
“Rocket Ridge” ở phía tây Kontum và phía tây nam Tân Cảnh, nhưng quân Bắc Việt
vẫn chưa mở các cuộc tấn công lớn trên bộ hiện đang diễn ra ở Quân đoàn I và
III. Các nhà phân tích tình báo của Quân đoàn II vào thời điểm đó cảm thấy rằng
“Quân đội Bắc Việt đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc phối hợp, và có vẻ như
họ đã không chuẩn bị mọi thứ để sẵn sàng ra trận.”(Xem Bản đồ 11). Vào ngày 3 tháng 4, bộ đội đặc công tấn công sân bay tại Phụng Hoàng, gần
Đăk Tô. Một bộ đội thuộc Trung đoàn Công binh 400 (Quân đội Bắc Việt) bị bắt
làm tù binh trong cuộc tấn công này cho biết rằng chiến dịch Mặt trận B-3 tại
Quân khu II, được gọi là “Trường Sơn Chuyển Mình”, sẽ được tiến hành trong hai
giai đoạn. Trong Giai đoạn I, lực lượng Bắc Việtsẽ phá hủy các căn cứ quân sự của Quân đội Việt
Nam Cộng hòa tại Tỉnh Kontum và mở đường cho địch tiếp tục di chuyển vào khu vực.
Trong Giai đoạn II, quân Bắc Việt sẽ chiếm Bến Hét, Dak To, Tân Cảnh và cuối
cùng là thị trấn Kontum. Kiểu tấn công bằng pháo binh và thăm dò trận địa sơ khởi
tiếp tục trong một số ngày khi lực lượng Bắc Việt được điều động đến vị trí xuất
kích cuối cùng của họ. Trong khi đó, Dzu và Vann duy trì áp lực lên quân BV bằng
B-52 và các cuộc không kích chiến thuật. Vào ngày 11 tháng 4, quân BV đã phát động cuộc tấn công ở Quân khu II bằng
một cuộc tập kích dữ dội vào CCYTHL Charlie, Six, Zulu và Yankee, cũng như Trại
Biệt kích Bến Hết ở phía tây Dak To. Cùng lúc đó, quân BV đã ra sức ngăn chặn
tuyến tiếp tế quan trọng nối liền các thành phố Qui Nhơn và Pleiku. Rõ ràng, lực
lượng Cộng sản đang cố gắng tách bờ biển khỏi Cao nguyên Trung phần để tước đoạt
Sài Gòn khả năng tăng cường và tiếp tế cho lực lượng miền Nam ở Cao nguyên. Vào ngày 14 tháng 4, QĐVNCH từ bỏCăn cứ Charlie dưới áp lực nặng nề của kẻ thù, nhưng cuộc rút lui diễn
ra có trật tự và quân miền Nam đã khiến quân Bắc Việt phải trả giá đắt cho chiến
thắng của mình. Một kiểm soát viên không quân tiền phương của Hoa Kỳ đã báo
cáo, “Những chiến sĩ Charlie bị áp đảo về số lượng, nhưng họ đã trụ vững. . . .
Họ không hề vỡ trận. Họ đã khiến quân đỏ phải tiến chiếm từng boongke một. Họ
chỉ không bỏ trận địa và tháo chạy. . . .” Thật không may, thành tích đáng khen ngợi như vậy của quân miền Nam không
phải lúc nào cũng duy trì trong cuộc giao tranh dữ dội sắp tới. Đến ngày 20
tháng 4, Tân Quan và Hoài An, các quận lỵ ở Tỉnh Bình Định, đã rơi vào tay quân
Bắc Việt. Vào ngày 23 tháng 4, bộ đội Bắc Việt tấn công Tân Cảnh, sở chỉ huy của
Sư đoàn 22 của QĐVNCH, với toàn bộ lực lượng xe tăng, bộ binh và pháo
binh.Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng đã
sử dụng lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam tên lửa chống tăng dẫn đường bằng
dây AT-3 “Sagger” do Liên Xô sản xuất. Đồng thời, họ cắt đứt Đường 14 tại ba địa
điểm phía trên Đăk Tô và phía nam Tân Cảnh, trên thực tế đã cô lập Tân Cảnh và
Đăk Tô khỏi thị trấn Kontum. Vào thời điểm này, theo Đại tá Phillip Kaplan, cố
vấn cấp cao của Sư đoàn 22, Đại tá Lê Đức Đạt, sĩ quan chỉ huy, đã suy sụp dưới
áp lực khủng khiếp. “Đạt thực sự suy sụp tinh thần”, Kaplan nhớ lại, báo cáo rằng
Đạt đã nói, “Chúng ta sẽ thua, chúng ta sẽ bị tràn ngập, tất cả chúng ta sẽ bị
giết chết hoặc bị bắt”. Biết rằng Đạt vẫn còn 1.200 binh lính bên trong căn cứ,
Kaplan đã thúc giục ông cố thủ, nhưng Đạt đã bị tê liệt vì sợ hãi và binh lính
của ông cũng vậy.Vào ngày 24 tháng 4,
khi binh lính phòng vệ miền Nam đang sợ hãi chờ đợi trong các boongke của họ,
quân Cộng sản đã bao vây Tân Cảnh và chiếm căn cứ mà không gặp khó khăn gì, tiến
vào sở chỉ huy của Sư đoàn 22 hầu như không gặp phải sự kháng cự nào. Mặc dù có
các máy bay tiêm kích-ném bom và trực thăng vũ trang Spectre luôn hiện diện,
quân phòng ngự miền Nam đã sụp đổ; ngay sau đó kẻ thù đã chiếm được Dak To. Một
cố vấn cấp cao của Quân đội Hoa Kỳ sau đó đã mô tả tình hình: “Tôi nghĩ lý do
khiến họ tan vỡ và bỏ chạy ngaylúc đầu
là do sự xuất hiện bất ngờ của xe tăng. Họ chưa bao giờ chiến đấu với xe tăng
trước đây. Họ có rất nhiều thiết bị chống tăng, nhưng không ai có thể hình dung
ra hàng loạt xe tăng T-54 và T-59 rầm rầm tiến tới. . . . Những đơn vị cho dù tốt
nhất khi hoàn toàn bất ngờ có thể bỏ chạy và vỡ trận.” Sư đoàn 22, không phải là một trong những đơn vị QĐVNCH tốt nhất, đã khuất
phục trước tác động tâm lý của các cuộc tấn công dữ dội. Khi quân miền Nam chạy
trốn khỏi khu vực Tân Cảnh-Đắk Tô trong nỗi kinh hoàng, họ đã bỏ lại 23 khẩu lựu
pháo 155 mm, 10 xe tăng M-41 và 16.000 viên đạn cho kẻ thù. Sau những trận chiến
này và cuộc rút lui sau đó, Sư đoàn 22 QĐVNCH không còn là một đơn vị đạt hiệu
quả chiến đấu, và cuối cùng, chỉ huy sư đoàn đã bị cách chức. Điều duy nhất làm
chậm cuộc tấn công của kẻ thù là sức mạnh không quân chiến thuật. Thương vong về
phía các nhân viên cố vấn Mỹ của Sư đoàn 22 trong những trận chiến này là 4 chết,
1 bị thương và 10 mất tích trong chiến đấu; Kaplan và 8 cố vấn đồng đội của ông
đã được trực thăng Hoa Kỳ sơ tán khi kẻ thù tràn ngập các vị trí của miền Nam tại
Tân Cảnh. Trong khi quân BV chiếm Dak To, các lực lượng Cộng sản bổ sung đã cắt
đứt Đường 1, đẩy hầu hết các đơn vị miền Nam đang bảo vệ con đường khỏi cứ điểm
của họ và thực sự giành được quyền kiểm soát gần như toàn bộ Tỉnh Bình Định. Khi Quân đội Bắc Việt tiếp tục các cuộc tấn công vào An Lộc và Quân đoàn
II, họ tiếp tục gia tăng áp lực ở Quảng Trị. Tướng Lãm, tư lệnh Quân đoàn I, đã
khởi xướng Chiến dịch Quang Trung 729 vào ngày 14 tháng 4. Thay vì là cuộc phản
công mà Lãm hy vọng một cách phi thực tế, chiến dịch này chẳng khác gì là sự tiếp
tục của cùng một hoạt động đã diễn ra. Các lực lượng miền Nam đã chạm trán với
quân Bắc Việt và không muốn tiến lên. Đến cuối tuần, QĐVNCH đã tiến về phía trước
cách tuyến xuất phát chưa đầy 500 mét.Như một cựu tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã viết sau chiến
tranh, “QUANG TRUNG không diễn tiến như một trận tấn công, mà đúng hơn là một
trận chiến tiêu hao tốn kém tại chỗ, trong đó các tiểu đoàn của miền Nam bị suy
giảm dần về sức mạnh và hiệu quả do hỏa lực pháo binh chết người của đối
phương.” Tinh thần binh lính miền Nam tại Quân đoàn I giảm mạnh. Các vấn đề mới về chỉ huy và kiểm soát lại nổi lên. Bộ tư lệnh Sư đoàn Thủy
quân Lục chiến và Bộ Tư lệnh Biệt động, cả hai đều tiếp tục bị loại khỏi cơ cấu
chỉ huy và kiểm soát, tỏ rathắc mắc về
tài chỉ huy của Tướng Giai và thậm chí còn ban hành các chỉ thị và mệnh lệnh
trái ngược với chỉ thị và mệnh lệnh của Giai, do đó làm phức tạp và gây nhầm lẫn
cho chuỗi quân lệnh tại Quân đoàn I và ức chế việc tiến hành phòng thủ hiệu quả
chống lại các cuộc tấn công của địch. Vào ngày 18 tháng 4, QĐNDVN bắt đầu một nỗ
lực phối hợp để chiếm Quảng Trị bằng một cuộc tấn công ồ ạtvào khu vực phía tây của Sư đoàn 3.Giống như những gì đã xảy ra ở An Lộc, sự hỗ
trợ trên không chiến thuật của Hoa Kỳ và B-52 đã phá vỡ thế tấn công và tạo cho
QĐVNCH một cơ hội tốt để phản công. Tuy nhiên, quân đội miền Nam đã không biết
nắm bắt thời cơ và vẫn nán lại trong boongke của họ. Tuần sau, tuyến phòng thủ tại Đông Hà và dọc theo Sông Cửa Việt sụp đổ,
không phải vì hành động của kẻ thù, mà là do tình trạng hoảng loạn của quân miền
Nam. Chỉ huy Lữ đoàn Thiết giáp số 1 đã ra lệnh cho đội xe tăng số 20 của mình
trên tuyến Cửa Việt chuyển hướng về phía nam dọc theo Đường 1 để dọn sạch các
phần tử địch ở đó. Binh lính miền Nam án ngữ dọc theo tuyến, nhìn thấy xe tăng
địch di chuyển về phía nam, đã hoảng loạn và tan rã hàng ngũ, chạy xuống đường
cao tốc hướng về Quảng Trị. Tuyến phòng thủ Cửa Việt, vốn rất hiệu quả trong gần
một tháng, đã bị bỏ rơi mà không có cuộc giao chiến nào.Chỉ huy Sư đoàn 3 biết về thảm họa quá muộn để
làm bất cứ điều gì và cố gắng tái lập một tuyến phòng thủ ở phía tây Quảng Trị
và phía bắc sông Thạch Hãn. Trong những ngày tiếp theo, lực lượng phòng vệ, vốn đã bị lung lay, lại
càng mất tinh thần hơn nữa khi bị pháo binh của địch liên tục tấn công. Vào
ngày 27 tháng 4, bộ đội BV, cố gắng tận dụng thời tiết xấu, đã khởi xướng một
cuộc công kích mới để chiếm thành phố Quảng Trị. Trong suốt cả ngày, hầu như tất
cả các đơn vị của Sư đoàn 3 miền Nam đều chạm trán với quân địch. Ngày hôm sau,
xe tăng địch tiến đến Cầu Quảng Trị, chỉ cách thành phố hai km về phía tây nam.
Hoảng sợ trước xe tăng, quân phòng thủ miền Nam nhanh chóng mất kỷ luật và bỏ
hàng ngũ, chạy về phía nam dọc theo Đường 1. Trong khi đó, ở những nơi khác trên tuyến phòng thủ, pháo binh của quân địch
và các cuộc tấn công liên tiếp trên bộ đã khiến Trung đoàn 57 không còn hiệu quả
trong chiến đấu.Vào ngày 30 tháng 4, Tướng
Giai nhận định rằng tuyến phòng thủ của mình không thể duy trì được và ra lệnh
cho lực lượng chuẩn bị rút lui về phía nam sông Thạch Hãn, để lại Lữ đoàn Thủy
quân Lục chiến 147 là đơn vị duy nhất ở phía bắc sông. Sáng hôm sau, khi các
đơn vị đang chuẩn bị di chuyển, Tướng Lãm đã gọi cho Tướng Giai và phản đối lệnh
của sư đoàn trưởng, nói rằng Sư đoàn 3 và các đơn vị phụ thuộc phải ở lại nơi họ
đang ở và giữ nguyên vị trí của mình bằng mọi giá. Sự thay đổi lệnh vào phút
chót đã dẫn đến tình trạng hỗn loạn hoàn toàn. Một số đơn vị đã di chuyển đến vị trí mới, một số khác đang trên đường đến,
và ở một số đơn vị khác nữa, các chỉ huy đơn vị từ chối ban lệnh mới cho quân
lính của họ. Do đó, hàng phòng thủ của Sư đoàn 3đã hoàn toàn sụp đổ. Các đơn vị ở phía bắc
con sông tràn về và “tiếp tục tiến về phía nam với sức mạnh không thể kiểm soát
của một trận lũ trên một con đập bị vỡ.” Các đơn vị cơ giới đến Cầu Quảng Trị
không thể vượt qua, vì cây cầu đã bị phá hủy trong tình trạng hỗn loạn. Họ bỏ lại
xe cộ và thiết bị của mình và lội bộ qua sông. Ở bờ nam con sông, binh lính
trong các đơn vị bộ binh đã thiết lập phòng tuyến dọc theo con sông, nhìn thấy
ngày càng đông đúc binh sĩ miền Nam, xe tăng và xe cộ tiến về phía nam với tốc
độ cao, đã bỏ vị trí của họ và gia nhập dòng người chạy trốn khỏi hàng ngũ. Khi
xe tăng và xe cơ giới hết xăng, tài xế và đồng đội đã bỏ xe và tiếp tục đi bộ.
Chỉ huy Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến 147, vẫn ở phía bắc con sông và là đơn vị
duy nhất còn lại bảo vệ thành phố, đã tự nhận định tình hình là vô vọng và ra lệnh
cho đơn vị của mình rút lui, để lại vị chỉ huy Sư đoàn 3 và bộ tham mưu của ông
ta một mình trong thành phố không được bảo vệ. Sau đó, Tướng Giai và các sĩ
quan tham mưu của ông lên ba xe bọc thép chở quân và cố gắng bắt kịp những người
lính đang bỏ chạy. Các trực thăng của Hoa Kỳ đã đến để giải cứu các nhân viên cố
vấn của sư đoàn và các nhân viên người Việt của họ.Không thể gia nhập quân đội của mình, nhóm của
Giai đã quay trở lại sở chỉ huy cũ, nơi họ cũng được trực thăng Hoa Kỳ đón. Khi
bộ đội tiến vào thành phố, Quảng Trị trở thành thủ phủ tỉnh đầu tiên rơi vào
tay Cộng sản trong chiến tranh. Sau đó, Tướng Giai đã bị cách chức và bị đưa ra
tòa án quân sự vì vi phạm nhiệm vụ và bỏ rơi sư đoàn của mình. Nhiều người Mỹ
nghĩ rằng Tướng Lãm cũng nên bị đưa ra tòa án binh, nhưng Giai đã trở thành vật
tế thần cho toàn bộ thảm họa ở Quân khu I. Trong quá trình chiếm giữ thủ phủ, các tay súng miền Bắc đã nhắm vào đám
đông binh sĩ và dân thường đổ xô xuống Đường 1, nơi được gọi là “Đại lộ Khủng bố”.
Đến ngày 2 tháng 5, toàn bộ tỉnh Quảng Trị đã nằm trong tay QĐNDVN, và Cộng sản
có thể chuyển sự chú ý của mình sang Tỉnh Thừa Thiên và kinh đô vương quốc cũ tại
Huế.Abrams, không tin Kontum và Huế có
thể trụ vững,đã gửi điện cho Washington
rằng “giới lãnh đạo cấp cao [Nam Việt Nam] đã bắt đầu buông xuôi và trong một số
trường hợp sụp đổ . . . mất đi ý chí, và không thể trông cậy để thực hiện các
biện pháp cần thiết nhằm đứng vững và chiến đấu.”
Nhận xét
Đăng nhận xét