BỎ RƠI VIỆT NAM:
15-ĐÁNH GIÁ CUỘC XÂM NHẬP CAMPUCHIA
Bất chấp sự phẫn nộ tại Hoa Kỳ do cuộc xâm nhập Campuchia gây ra, chiến dịch
này đã thành công về mặt quân sự. Các căn cứ và kho dự trữ hậu cần của Cộng sản
đã bị giáng một đòn nghiêm trọng. Các đồng minh đã thu giữ được một khối lượng
vật tư và vật liệu ấn tượng, bao gồm 16 triệu viên đạn các loại; 45.283 quả
rocket; 14 triệu cân gạo; 2.892 vũ khí riêng lẻ; 5.487 quả mìn; 62.000 quả lựu
đạn; và 435 xe cộ (xem bảng 7).
Người ta ước tính rằng số vũ khí thu được đủ để trang bị cho ít nhất một
sư đoàn Cộng sản và đạn dược đủ để cung cấp cho 126 tiểu đoàn địch trong tối đa
bốn tháng trên chiến trường. Ngoài ra,
11.700 boongke đã bị phá hủy, và phe đồng minh tuyên bố đã giết chết 11.349
quân địch (mặc dù CIA và nhiều phương tiện truyền thông thấy những con số này rất
đáng ngờ).
Bảng 7.
Vật liệu thu được trong Cuộc xâm lược Campuchia, 1970
Vũ khí cá nhân 2.892
Vũ khí tập thể 2.509
Đạn dược vũ khí nhỏ (viên đạn) 16.762.167
Đạn phòng không (viên đạn) 199.552
Đạn cối (viên đạn) 68.593
Tên lửa, B-40 và B-41 43.160
Đạn súng trường không giật (viên đạn) 29.185
Lựu đạn cầm tay 62.022
Thuốc nổ (cân) 83.000
Tên lửa, 107 mm và 122 mm 2.123
Mìn, mọi loại 5.487
Xe cộ, mọi loại 435
Dược phẩm (cân) 110.800
Gạo (cân) 14.046.000
Nguồn: Dữ liệu từ Bảng dữ kiện, “Mức tác động đến kẻ thù của các chiến dịch
Campuchia,” phát hành tại Sài Gòn, ngày 14 tháng 5 năm 1970. Trong Hồ sơ chi
nhánh Đông Nam Á, Trung tâm Lịch sử Quân sự Lục quân Hoa Kỳ, Washington, D.C.
Chuyên gia chống nổi loạn nổi tiếng người Anh, Ngài Robert Thompson, người
đã đến thăm miền Nam ngay sau chiến dịch Campuchia, tin rằng cuộc xâm nhập đã đạt
được ba kết quả chiến lược quan trọng ngoài việc phá hủy nguồn cung cấp của Cộng
sản. Đầu tiên, nó ngăn chặn Bắc Việt
ngay lập tức tấn công Campuchia và cứu Phnom Penh, qua đó bảo tồn chính quyền
Lon Nol và sự tồn tại của Campuchia như một quốc gia (ít nhất là tạm thời). Nó
cũng đóng cửa Sihanoukville như một cảng tiếp tế của Quân BV và buộc người Cộng
sản phải mang tất cả các nguồn cung cấp xuống Đường mòn Hồ Chí Minh, do đó kéo
dài đường dây cứu sinh của họ. Cuối cùng, theo Thompson, cuộc xâm nhập cho thấy
Nixon đã sẵn sàng sử dụng lực lượng Hoa Kỳ để tấn công nhằm bảo vệ số quân Hoa
Kỳ còn lại và hỗ trợ cũng như bảo vệ nỗ lực Việt Nam hóa.
Đối với Nixon và chính quyền của ông, hoạt động này đã chứng minh tính hợp
lệ của chính sách Việt Nam hóa của Hoa Kỳ. QLVNCH đã thể hiện tinh thần chiến đấu
và khả năng tiến hành các hoạt động cơ động chống lại một kẻ thù được huấn luyện
tốt, được trang bị tốt. Peter Kann của Tạp chí Phố Wall đã đưa tin từ Campuchia
vào tháng 7 năm 1970 rằng “Ngay cả những người chỉ trích lâu năm cũng thừa nhận
rằng QLVNCH đã hoạt động hiệu quả và hiệu suất cao—ít nhất là theo tiêu chuẩn
hoạt động của Nam Việt Nam. Các trung
đoàn thường hiếm khi mạo hiểm thực hiện một hoạt động khó khăn kéo dài hơn hai
ngày ở miền Nam giờ đây đã liên tục di chuyển và chạm trán với lực lượng địch
trong sáu đến tám tuần ở Campuchia. Các hoạt động của Nam Việt Nam tại
Campuchia càng ấn tượng hơn ở chỗ nhiều hoạt động đã được tiến hành ngoài phạm
vi hỗ trợ hậu cần và hỏa lực của Hoa Kỳ.”
Các cố vấn của quân đội miền Nam đã báo cáo rằng tinh thần binh lính miền
Nam đã tăng lên đáng kể, họ tỏ ra vui mừng vì cuộc chiến cuối cùng đã được đưa
ra khỏi đất nước của mình và vào tận “hang ổ” của kẻ thù. Mặc dù hoạt động có
nhiều khía cạnh tích cực, nhưng không phải tất cả đều hoàn hảo, bao gồm một số
điểm thấp như việc binh lính miền Nam cướp bóc tại đồn điền Chup và Kompong
Speu. Tuy nhiên, hiệu suất chiến đấu chung của miền Nam rất khả quan. Chiến dịch
đã giành được nhiều thời gian cần thiết cho các đồng minh. Người Cộng sản đã
không thể tiến hành bất kỳ chiến dịch quan trọng nào từ Móc Câu và Mỏ Vẹt trong
hai năm tiếp theo. Mặc dù đã gây ra tranh cãi, quyết định của tổng thống về việc
tiến vào Campuchia đã làm giảm bớt áp lực ở miền Nam. Các nơi ẩn náu của Cộng sản
đã phải chịu một đòn nghiêm trọng, và Quân BV sẽ cần nhiều tháng để xây dựng lại
các căn cứ địa của họ ở Campuchia. Sau khi có thêm không gian thở cho cả quân
miền Nam và các nỗ lực Việt Nam hóa tiếp theo, Nixon có thể tiếp tục lịch trình
rút quân của mình trong phần còn lại của năm 1970 và sang năm 1971. Sự tham gia
của lực lượng quân miền Nam vào chiến dịch đã nâng cao đáng kể sự tự tin của họ,
và sau đó họ đã đảm nhận nhiều trách nhiệm hơn đối với cuộc chiến, đặc biệt là ở
các khu vực biên giới, trong khi các lực lượng Hoa Kỳ chuẩn bị tái triển khai về
Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, không phải ai cũng nghĩ
rằng chiến dịch đó thành công như vậy. Tướng Bruce Palmer, người từng là phó tướng
của Westmoreland tại MACV, đã viết sau chiến tranh rằng các cuộc đột kích của
Campuchia đã “làm tổn hại nghiêm trọng đến cơ hội sống sót và duy trì tự do của
miền Nam” và rằng bất kỳ thành quả nào cũng “phản tác dụng”. “Về mặt chính trị”,
ông kết luận, “Campuchia không chỉ gây ra một vòng xoáy đi xuống về mức ủng hộ
của công chúng và quốc hội đối với các hoạt động của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á, cuối
cùng không những bị cấm, mà còn dẫn đến sự suy giảm mạnh mẽ trong nỗ lực cố vấn
và viện trợ quân sự của Hoa Kỳ cho miền Nam. Đây có lẽ là đòn giáng gây thiệt hại
nhất đối với Sài Gòn”.
Palmer ít nhất đã đúng một phần. Bất chấp thành công về mặt quân sự của
chiến dịch, cuộc xâm nhập của Campuchia đã gây ra một cơn bão tranh cãi trong
nước. Sinh viên đại học đã nổi dậy gần như hàng loạt để phản đối những gì đối với
họ là một sự leo thang rõ ràng của hành động chiến tranh. Các cuộc tuần hành và biểu tình đã được tổ chức
tại các trường đại học trên khắp cả nước, bao gồm New York, Ohio, Texas,
California, Georgia, Wisconsin và nhiều tiểu bang khác. Trước khi tháng 5 kết
thúc, 57 phần trăm trong số 1.350 trường đại học của cả nước đã xảy ra các cuộc
bãi học và biểu tình liên quan đến 4,5 triệu sinh viên.
Vào ngày 4 tháng 5, Lực lượng Vệ binh Quốc gia đã nổ súng vào một nhóm
sinh viên biểu tình phản đối chiến tranh tại Kent State, giết chết bốn người
(hai người trong số họ không tham gia vào các cuộc biểu tình). Vào ngày 14
tháng 5 năm 1970, mười ngày sau vụ giết người tại Đại học Kent State, một vụ việc
tương tự đã xảy ra tại Cao đẳng Jackson State, một học viện chủ yếu là người Mỹ
gốc Phi ở Mississippi. Sau hai đêm biểu tình tại trường, một cuộc đối đầu dữ dội
đã kết thúc khi cảnh sát và cảnh sát tuần tra đường bộ của tiểu bang bắn vào một
ký túc xá, giết chết hai sinh viên và làm bị thương mười hai sinh viên khác.
Vào ngày 8 tháng 5, hơn 100.000 người Mỹ đã tuần hành đến Washington để phản đối
cuộc chiến; chính phủ đã triệu tập quân đội chính quy để giải quyết tình trạng
hỗn loạn.
Phản ứng của Quốc hội đối với quyết định của Nixon về việc đưa quân đội
Hoa Kỳ vào Campuchia cũng không kém phần mạnh mẽ. Vào tháng 6, họ đã hủy bỏ Nghị
quyết Vịnh Bắc Bộ năm 1964, mà các chính quyền kế tiếp đã sử dụng để ủy quyền
cho cuộc chiến. Vào ngày mà chiến dịch Campuchia chính thức kết thúc, ngày 30
tháng 6, Thượng viện đã thông qua Tu chính án Cooper-Church, cấm chi tiêu công
quỹ cho bất kỳ hoạt động đưa lực lượng bộ binh Hoa Kỳ nào vào Campuchia trong
tương lai. Hạ viện đã bác bỏ tu chính án này vào ngày 9 tháng 7, nhưng cuộc
tranh luận tương ứng đã chứng tỏ rằng ngày càng có nhiều thành viên Quốc hội rõ
ràng không hài lòng với việc Nixon mở rộng chiến tranh. Đến cuối tháng 8, Thượng
viện đã tranh luận về Tu chính án McGovern-Hatfield, trong đó đặt ra thời hạn
cho việc Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á là ngày 31 tháng 12 năm 1971, cho phép tổng
thống gia hạn thời hạn thêm 60 ngày trong trường hợp khẩn cấp. Tu chính án đã
nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các biên tập viên. Tờ Washington Post đã kêu gọi
thông qua, nói rằng nó sẽ “chấm dứt trò chơi gian lận” ở Đông Nam Á. Mặc dù tu chính án đã bị bác bỏ với tỷ lệ phiếu
55-39 vào ngày 1 tháng 9, nhưng một luật tương tự sẽ được đưa ra tại Quốc hội
nhiều lần nữa, làm tăng áp lực buộc Nixon phải chấm dứt chiến tranh.
Cuộc xâm nhập Campuchia và hậu quả của nó cũng có tác động tiêu cực ở nước
ngoài. Ngược lại với lời khẳng định của
Nixon rằng ảnh hưởng và uy tín của Hoa Kỳ phụ thuộc vào hành động quyết liệt chống
lại các khu căn cứ địa Cộng sản, phản ứng của các đồng minh Hoa Kỳ, theo lời của
thủ tướng Anh Harold Wilson, nói chung là “lo lắng và bất an”.
Vào tháng 6, một cuộc thăm dò bí mật do Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ tiến
hành tại bốn quốc gia châu Âu và bốn quốc gia châu Á cho thấy uy tín của Hoa Kỳ
đã suy giảm đáng kể—rõ ràng là do các hoạt động vào tháng 5-tháng 6 tại
Campuchia—ở hầu hết các quốc gia được lấy mẫu”.
Trong khi phe biểu tình phản chiến, phe chỉ trích tại Quốc hội và các nhà
quan sát nước ngoài lên án Nixon, nhiều người Mỹ vẫn ủng hộ tổng thống. Một cuộc
thăm dò của Newsweek vào tuần thứ hai của tháng 5 cho thấy 50 phần trăm chấp
thuận đối với quyết định đưa quân vào Campuchia của Tổng thống Nixon. Nhà Trắng
đã nhận được gần nửa triệu lá thư và tấm thiệp, phần lớn trong số đó ủng hộ tổng
thống. Vào ngày 20 tháng 5, 100.000 công
nhân xây dựng, công nhân bốc xếp, thợ thủ công và nhân viên văn phòng diễu hành
qua Manhattan để thể hiện sự đồng tình đối với Nixon và các chính sách của ông
tại Đông Nam Á.
Mặc dù có sự ủng hộ này, Nixon biết rằng mình sắp hết thời gian ở Việt
Nam. Ông phải tăng cường nỗ lực Việt Nam hóa và tiếp tục rút quân Hoa Kỳ trước
khi đất nước ông bị chia rẽ. Vào ngày 30 tháng 6, tổng thống đã lên truyền hình
và tuyên bố hoàn thành các chiến dịch Móc Câu và Mỏ Vẹt. Ông nói: “Với các hoạt
động trên bộ của Hoa Kỳ tại Campuchia đã kết thúc, chúng ta sẽ tiến hành kế hoạch
chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam và bảo đảm nền hòa bình công chính trên đó tất
cả người dân Mỹ đều đoàn kết… Cuộc xâm nhập Campuchia sẽ cứu người Mỹ và các lực
lượng đồng minh trong tương lai; sẽ đảm bảo việc rút quân Hoa Kỳ khỏi miền Nam
có thể diễn ra đúng tiến độ; sẽ cho phép chúng ta tiếp tục tiến trình Việt Nam
hóa theo thời gian biểu hiện tại; và sẽ nâng cao triển vọng cho một nền hòa
bình công bằng”.
Nhận xét
Đăng nhận xét