BỎ RƠI VIỆT NAM:-22-TÌNH HÌNH ĐẦU NĂM 1972

 
BỎ RƠI VIỆT NAM:
BÀI KIỂM TRA CUỐI CÙNG CỦA CHÍNH SÁCH VIỆT NAM HOÁ
22-TÌNH HÌNH ĐẦU NĂM 1972

Khi năm 1972 bắt đầu, tình hình ở miền Nam có vẻ đang được cải thiện.
 
Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), vốn bận rộn chỉnh đốn các đơn vị bị tổn thất  trong cuộc xâm lược Lào của quân đồng minh, chỉ tiếp tục lại các hoạt động tấn công hạn chế vào nửa năm cuối 1971. Kết quả là, nỗ lực bình định đã đạt được những thành quả to lớn. Một nhà quan sát, phóng viên và cựu đại tá Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ Robert D. Heinl, đã đi xa hơn khi cho biết vào năm 1972, “Nếu bình định thành công là thước đo, thì cuộc chiến ở Việt Nam đã được giải quyết. Chúng ta đã chiến thắng.”
 
Đây là một lời nói cường điệu, nhưng đến cuối năm 1971, Khảo sát Đánh giá Nông thôn của MACV chỉ ra rằng 97 phần trăm các làng mạc và thôn xóm ở miền Nam hoàn toàn an ninh hoặc tương đối an ninh.
 
Mặc dù vẫn còn gây tranh cãi, nhưng số liệu thống kê cho thấy rõ ràng tình hình an ninh ở nông thôn đã tốt hơn nhiều so với trước đây.  Robert Thompson, cố vấn không chính thức của Tổng thống Nixon về các vấn đề ở Việt Nam, đã thực hiện một chuyến đi đến miền Nam vào cuối năm 1970 và báo cáo, “Một trong những trải nghiệm thú vị nhất của tôi là lái chiếc xe máy Honda của Quận trưởng đi vòng quanh các ngôi làng ở tỉnh Quảng Tín hoàn toàn không cần có người hộ tống trong một khu vực mà chỉ hai năm trước, chính thị trấn của quận đã bị vây hãm và chỉ mới được chiếm giữ lại.”
 
Lực lượng bộ binh của miền Nam đã phục hồi phần nào sau những tác động tàn khốc của Lam Sơn 719. Các đơn vị bị thương vong nghiêm trọng ở Lào đã được bổ sung hoặc thay thế để trở lại tình trạng phục hồi sức mạnh hoàn toàn, và chương trình huấn luyện vũ trang kết hợp đã bắt đầu cho thấy những dấu hiệu tiến bộ  Về mặt thuần số lượng, lực lượng chính quy của miền Nam đã tăng lên hơn một triệu nam nữ có vũ trang vào đầu năm 1972. Một sư đoàn mới, Sư đoàn 3 Bộ binh, đã được thành lập tại Quân Đoàn I từ các trung đoàn được rút ra từ các sư đoàn khác và được triển khai dọc theo DMZ (Khu Phi Quân sự). Lực lượng tự vệ bán quân sự đã tăng gấp ba lần lên hơn bốn triệu. Lực lượng Hải quân và Thủy quân Lục chiến đã tăng gấp đôi, và lực lượng Không quân đã tăng gấp hai lần rưỡi. Để trang bị cho các lực lượng mở rộng này, Hoa Kỳ đã cung cấp 844.000 vũ khí cá nhân và  1.880 xe tăng và pháo, một số lượng lớn máy ủi và các thiết bị kỹ thuật hạng nặng khác, 44.000 bộ vô tuyến và 778 trực thăng và máy bay cánh cố định. Đến đầu năm 1972, trên lý thuyết, Không quân Việt Nam Cộng hòa là một lực lượng đáng gờm.  Nó sẽ sớm được thử nghiệm theo cách quyết liệt nhất.
 
Trong khi nỗ lực Việt Nam hóa được đẩy mạnh, việc rút quân của Hoa Kỳ vẫn tiếp tục theo đúng kế hoạch, với 177.000 người Mỹ rời đi vào năm 1971. Đến tháng 1 năm 1972, quân số của Hoa Kỳ tại Việt Nam là 158.000, mức thấp nhất kể từ năm 1965. Vào tháng đó, Nixon tuyên bố rằng ông sẽ rút thêm 70.000 quân khỏi Miền Nam vào ngày 1 tháng 5. Khi lực lượng chiến đấu của Hoa Kỳ bị cắt giảm để đáp ứng lịch trình mới này, một sự cắt giảm tương ứng đã diễn ra tại các sở chỉ huy cấp cao của Hoa Kỳ tại bản xứ, bao gồm MACV (Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại VN), USARV: Quân đội Hoa Kỳ tại VN, Không lực  7 và Lực lượng Đổ bộ TQLC 3. Nhiều bộ tư lệnh lớn và phức tạp của Hoa Kỳ phụ trách tình báo, hậu cần và các loại hỗ trợ khác, chẳng hạn như thông tin liên lạc, đã bị giải thể và binh sĩ Hoa Kỳ đã được gửi về nước. Theo đó, nhiều căn cứ lớn hơn do Hoa Kỳ xây dựng đã được chuyển giao cho miền Nam.  Ví dụ, vào cuối năm 1971, Không lực Hoa Kỳ đã chuyển giao 10 trong số 15 căn cứ không quân cho Không lực Việt Nam.
 
Do liên tục rút quân, cơ cấu cố vấn cũng bị thu hẹp đáng kể. Vào cuối năm 1971, Tướng Abrams đã giải thể Văn phòng MACV của Trợ lý Tham mưu trưởng về Hỗ trợ Quân sự, trước đây chịu trách nhiệm điều phối mọi nỗ lực cố vấn ở Miền  Nam, chuyển giao nhiệm vụ của mình cho các bộ phận tham mưu liên quan của MACV. Ban huấn luyện MACV được giao trách nhiệm quản lý Chương trình Hỗ trợ Quân sự, bao gồm hỗ trợ của Hoa Kỳ cho nỗ lực đào tạo Không quân Việt Nam Cộng hòa.
 
Đầu năm 1972, Abrams đã ra lệnh tổ chức lại MACV, chuyển đổi từ một sở chỉ huy hoạt động thành một nhóm cố vấn kết hợp. Trong khi Abrams tổ chức lại sở chỉ huy MACV, ông cũng thực hiện các bước để giảm lực lượng cố vấn Hoa Kỳ trên chiến trường. Các sở chỉ huy lớn của Hoa Kỳ trước đây kiểm soát các hoạt động ở mỗi quân khu (vùng chiến thuật của quân đoàn) đã được thay thế bằng các nhóm cố vấn vùng nhỏ. Quân đoàn 24 của Lục quân Hoa Kỳ và Nhóm cố vấn Quân đoàn I trở thành Bộ Tư lệnh Hỗ trợ  Vùng 1. Lực lượng Dã chiến I và Nhóm cố vấn Quân đoàn II trở thành Nhóm Hỗ trợ Vùng 2. Lực lượng Dã chiến II và Nhóm Cố vấn Quân đoàn III trở thành Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Vùng 3. Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Quân sự Đồng bằng và Nhóm Cố vấn Quân đoàn IV kết hợp để thành lập Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Vùng Đồng bằng.
 
Chỉ huy của mỗi bộ tư lệnh hỗ trợ vùng là chỉ huy cấp cao của Hoa Kỳ trong vùng (một thiếu tướng quân đội), người chỉ huy các đơn vị Hoa Kỳ trong vùng và là cố vấn cấp cao cho chỉ huy quân đoàn. Một ngoại lệ duy nhất đối với sự sắp xếp này là ở Quân khu II, nơi Abrams bổ nhiệm một viên chức dân sự, John Paul Vann, làm người đứng đầu Nhóm hỗ trợ vùng 2. Vì là một dân sự, nên ông có một sĩ quan cấp tướng của Quân đội Hoa Kỳ làm phó cho mình, người này chỉ huy các thành viên quân sự của nhóm cố vấn và các lực lượng Hoa Kỳ khác còn lại trong vùng.
 
Ở các cấp thấp hơn, Abrams ra lệnh cắt giảm các đội hỗ trợ chiến đấu của sư đoàn, đóng cửa các đội cố vấn cấp tiểu đoàn vào ngày 30 tháng 6 năm 1971 và bắt đầu loại bỏ dần các đội cấp trung đoàn vào tháng 9. Đến đầu năm 1972, chỉ còn 5.416 cố vấn chiến thuật ở khắp Miền Nam. Các trường và trung tâm đào tạo tỉnh, huyện, và các yếu tố cố vấn khác bị cắt giảm số lượng tương ứng, và số lượng nhân viên cố vấn CORDS (Xây dựng Nông thôn) tại MACV và cấp tỉnh và huyện đã giảm hơn một nửa trong năm 1971 (6.147 xuống còn 2.682).
 
Mặc dù số lượng tương đối ít, các cố vấn đã đảm nhận ngày càng nhiều vai trò quan trọng hơn khi lực lượng chiến đấu của Hoa Kỳ rút lui, thực hiện các chức năng quan trọng khi những nỗ lực chuyển giao chiến tranh cho QLVNCH ngày càng mạnh mẽ. Khi lực lượng chiến đấu của Hoa Kỳ rời khỏi miền Nam, các cố vấn chiến thuật trên chiến trường trở thành đầu mối liên lạc và phối hợp giữa QLVNCH và các nguồn hỗ trợ chiến đấu của Hoa Kỳ vẫn còn ở lại trong nước. Mặc dù vào thời điểm này, rất ít lực lượng Hoa Kỳ hoạt động trong các vai trò chiến đấu trên bộ tại Việt Nam, nhưng sức mạnh không quân chiến thuật của Hoa Kỳ vẫn còn hiện hữu rõ ràng trên khắp chiến trường.  Không quân Hoa Kỳ và máy bay Thủy quân Lục chiến hoạt động từ các căn cứ ở Miền Nam  và Thái Lan, trong khi Hải quân Hoa Kỳ và các máy bay Thủy quân Lục chiến khác hoạt động từ các tàu sân bay ở Biển Đông. Máy bay ném bom hạng nặng B-52 thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên từ các căn cứ ở Guam và Thái Lan. Ngoài ra, trực thăng của Quân đội Hoa Kỳ tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ mặt đất trên khắp miền Nam. Các cố vấn Hoa Kỳ trên thực địa đã tạo ra một mối liên kết vô giá giữa miền Nam và sự hỗ trợ này, một vai trò sẽ chứng minh là rất quan trọng trong hành động tiếp theo vào năm 1972.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến