HUYỀN CHI – TÁC GIẢ BÍ ẦN CỦA CA TỪ “THUYỂN VIỄN XỨ”
HUYỀN CHI – TÁC GIẢ BÍ ẦN
CỦA CA TỪ “THUYỂN VIỄN XỨ”
CỦA CA TỪ “THUYỂN VIỄN XỨ”
Trong một tập sách in những ca
khúc của nhạc sĩ Phạm Duy, ông có đưa vào một câu dưới bài Thuyền viễn xứ: “Huyền
Chi, cô ở đâu?”. Đó cũng là câu hỏi của tôi khi nghe lại ca khúc đầy ắp cảm xúc
này. Huyền Chi là ai? Ít thông tin trên mạng cho biết cô là một cô gái phụ mẹ
bán vải ở chợ Bến Thành. Cơ duyên nào khiến bài thơ của cô được nhạc sĩ danh tiếng
Phạm Duy phổ nhạc?
Đầu năm 2016, tôi xem được những
tấm ảnh của Huyền Chi và biết thêm nhiều thông tin về cô. Trong ảnh, Huyền Chi
là một cô gái có nét đẹp của một diễn viên điện ảnh với dáng cao, cân đối và trắng
trẻo. Cô gái ấy sinh ra ở vùng Tân Định, Sài Gòn, có lúc ra định cư tại Phan
Thiết rồi quay về sống ở thành phố này tới nay.
Cô học tiếng Anh từ trước năm
1954 khi tiếng Pháp là ngoại ngữ phổ biến, đang được học hằng ngày ở các trường
Tây tại Sài Gòn. Cô làm thơ khi còn rất trẻ, ra tập thơ duy nhất năm 18 tuổi rồi
để thất lạc. Cô có một bài thơ được phổ thành ca khúc Thuyền viễn xứ của
nhạc sĩ Phạm Duy dù chỉ gặp ông lần duy nhất trong đời.
Bài thơ buồn của cô gái trẻ
Tôi gặp bà Hồ Thị Ngọc Bút tại
quận 2, trước giờ bà dạy tiếng Anh tại nhà. Không thể nghĩ rằng bà đã 82 tuổi.
Trước mặt tôi là một phụ nữ trắng trẻo, vóc dáng cao,
khỏe
mạnh.
Bà Ngọc Bút chính là nhà thơ Huyền
Chi của những năm đầu thập niên 1950.
Đầu thập niên 1930 có một kỹ sư
Hỏa xa (Ingénieur technique adjoint) tên là Hồ Văn Ánh, từng được đào tạo tại
Pháp trong những khóa đầu tiên cho thuộc địa.
Năm 1940, ông làm giám đốc Hỏa
xa các tỉnh Phan Thiết, Phan Rang và Nha Trang, có ngôi nhà riêng hai tầng
khang trang ở Phan Thiết, một “wagon” riêng trên tàu hỏa đặc biệt cho gia đình
tùy nghi sử dụng miễn phí.
Công việc của ông là tổ chức,
đào tạo, kiểm soát và duy trì hệ thống Hỏa xa toàn quốc. Vì công việc, ông di
chuyển và ở lại nhiều thành phố nên vợ ông lần lượt sinh sáu người con ở các
nơi trên đường công tác.
Con gái út Ngọc Bút được sinh ra
tại Sài Gòn khi ông làm việc tại đây. Khi ông đến Phan Thiết, Ngọc Bút được đi
học tại Trường nữ tiểu học Phan Thiết.
Cuộc sống đang êm đềm thì biến cố
xảy ra, bà nội của cô ở quê nhà Bắc Ninh bệnh nặng. Đáng lẽ cả gia đình đều phải
về, nhưng trong nhà có một người con cũng đang bị bệnh nên chỉ có ba cô và hai
anh chị cô về Bắc trước.
Dự tính khi con bớt bệnh, mẹ cô
sẽ dẫn tất cả về luôn. Không ngờ đó là lần cuối cùng cô gặp cha, rồi do bom đạn,
loạn lạc, tản cư và cuối cùng là cuộc chia đôi đất nước khiến gia đình cô phân
cách vĩnh viễn.
Mẹ cô mở sạp bán vải tại cửa Nam
chợ Bến Thành để sinh sống. Cô ở với mẹ, vừa đi làm vừa đi học, vừa dọn hàng
giúp mẹ.
Trong thời gian hai miền Bắc -
Nam được tự do thông thương năm 1954, mẹ đã trở về Bắc với cha cô, nhưng bốn
người con vẫn ở lại miền Nam vì lúc ấy ai cũng đã có công ăn việc làm và cô
cũng sắp kết hôn.
Những năm tuổi nhỏ được theo cha
mẹ về thăm quê mỗi năm và đi đây đi đó, Ngọc Bút có nhiều cảm xúc về quê hương
xứ Bắc. Hơn nữa, sự phân ly, chia cắt gia đình quá sớm khi còn bé đã để lại một
ấn tượng sâu trong lòng cô.
Vì vậy cô đã tưởng tượng ra một
cuộc chia ly trên quê hương trước khi nó biến thành sự thật. Đó là lý do ra đời
của bài thơ Thuyền viễn xứ.
Nhiều người hỏi: “Vì sao cô còn
trẻ mà làm thơ buồn thế?”, cô trả lời: “Tôi tưởng tượng thôi mà!”. Nhưng thật
ra nỗi đau âm ỉ trong lòng cô trong nhiều năm đã tạo nên những vần thơ ấy.
Huyền
Chi, cô ở đâu?
Năm 1952, Ngọc Bút đến nhà in
báo Sống Chung trên đường Trần Hưng Đạo, quận Nhứt xem tập thơ vừa in
xong của mình. Tập thơ mang tên Cởi mở, gom lại 22 bài thơ do cô viết từ
năm 16 tuổi.
Lúc đó tuy mới 18, cô đã tham
gia biên tập thơ cho báo Phụ Nữ của bà Nguyễn Thị Lan Phương và gia
nhập nhóm thơ - văn - nhạc lấy tên là Chim Việt. Những bài thơ trong tập đã được
đăng rải rác trên một số báo, cô dùng bút danh Khánh Ngọc, rồi sau đó là Huyền
Chi.
Buổi đó, nhạc sĩ Phạm Duy vừa đến
và được bà Đào, chủ nhà in, giới thiệu về cô. Phạm Duy khi ấy còn trẻ, mới 32
tuổi nhưng đã nổi tiếng.
Ông vừa đưa gia đình vào Nam và
đang thu xếp cuộc sống ổn định ở quê hương mới cho gia đình. Biết cô vừa in
xong tập thơ, ông mượn xem và xin cô một tập để nếu có bài nào hay thì xin được
phổ thành ca khúc.
Một thời gian sau, cô nghe được
ca khúc Thuyền viễn xứ do nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ bài thơ lục bát của
cô trên sóng phát thanh và thấy ca khúc này được in thành tờ nhạc khổ lớn rất
thịnh hành lúc đó của hai nhà xuất bản Tinh Hoa và Á Châu. Trên bìa hai ấn phẩm
này ghi rõ: Nhạc: Phạm Duy, ý thơ: Huyền Chi.
Đó là khoảng thời gian cô vừa lập
gia đình với ông Trần Phụng Tường, giáo sư trung học. Cô rời khỏi công việc
biên tập thơ, theo chồng về Phan Thiết. Cô hầu như không tiếp tục làm thơ, lo
toan làm ăn, mở hiệu sách, dạy tiếng Anh và chăm sóc tới bảy người con. Có lần
trong tờ giấy in ca khúc Thuyền viễn xứ, cô thấy lời nhắn của nhạc sĩ
Phạm Duy: “Huyền Chi, cô ở đâu?”.
Thỉnh thoảng, cô vẫn nghe trên
sóng phát thanh giọng hát Lệ Thu. Cô nhận thấy nhạc sĩ Phạm Duy rất tài tình,
dùng ý bài thơ lục bát với nhịp điệu chậm rãi, đều đặn của cô viết thành một ca
khúc đầy cảm xúc. Ông chắt lọc ngôn ngữ trong thơ, thêm thắt và tạo nên một tác
phẩm âm nhạc hoàn hảo.
Năm 1975, bà Ngọc Bút cùng gia
đình về lại Sài Gòn, nơi chôn nhau cắt rốn của bà và sống ở đây đến nay. Phu
quân của bà đã tạ thế năm 2010 sau mười năm nằm một chỗ vì bệnh.
Trong khoảng thời gian này, bà
được tin nhắn mong có cuộc gặp của nhạc sĩ Phạm Duy sau khi ông hồi hương về Việt
Nam, nhưng bà xin từ chối vì bận chăm sóc chồng. Sau đó, bà có nhận được khoản
tiền tác quyền từ lời của ca khúc Thuyền viễn xứ từ nơi sở hữu tác
quyền ca khúc này.
Đọc lại bài thơ Thuyền viễn
xứ của bà Ngọc Bút, thấy thơ của một cô gái mới 16, 17 tuổi đã rất đằm sâu
và mênh mang với giọng điệu và ngôn ngữ phóng khoáng:
“...Có thuyền viễn xứ Đà Giang /
Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa / Hò ơi! Câu hát ngàn xưa / Ngân lên trong một
chiều mưa xứ người / Đường về cố lý xa xôi / Nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang
mang / Sau mùa mưa gió phũ phàng / Bến sông quay lại, hướng làng nẻo xa / Lệ
nhòa như nước sông Đà / Mái đầu sương tuyết lòng già mong con...”.
Gặp tài năng của nhạc sĩ Phạm
Duy, lời trong ca khúc mang sắc thái khác: “Chiều nay sương khói lên khơi. Thùy
dương rũ bến tơi bời. Làn mây hồng pha ráng trời. Sóng Đà Giang thuyền qua xứ
người. Thuyền ơi, viễn xứ xa xưa. Một lần qua dạt bến lau thưa. Hò ơi, giọng
hát thiên thu. Suối nguồn xa vắng, chiều mưa ngàn về...”.
Như một sự đồng điệu đồng cảm của
người phổ nhạc. Có thể vì Phạm Duy cũng là một người xa xứ, khi đọc được bài
thơ cũng là lúc ông vừa giã từ quê hương miền Bắc để trở thành cư dân của Sài
Gòn, nơi ông có thời hoạt động âm nhạc sôi nổi nhất.
Đến nay, ca khúc này rất gắn bó
với người Việt hải ngoại. Họ thấy mình trong đó, như vẫn đang đi trên con thuyền
viễn xứ.
PHẠM CÔNG LUẬN
Nhận xét
Đăng nhận xét