CẦN CÓ SỰ NHẬN THỨC LẠI VỀ TỪ HÁN-VIỆT
CẦN CÓ SỰ NHẬN THỨC LẠI
VỀ TỪ HÁN-VIỆT
Trong một bài viết đăng trên
báo Một Thế Giới, tôi từng nêu vấn đề tiếng Anh, tiếng Pháp đã xâm thực,
khiến cho tiếng Việt bị thất bại, làm cho người Việt bị vong bản trên đất nước
mình. Có bạn comment chê trách tôi vì kêu ca tiếng Anh thì lại thay vào đó bằng
từ Hán-Việt. Tôi đã dự cảm, nhất định có ý kiến như vậy bởi vì rất nhiều người
còn hiểu sai về kho tàng từ Hán Việt của ta.
Thứ nhất, xin khẳng định từ
Hán-Việt không phải từ ngữ của Trung Quốc, mà đó là từ Việt. Có điều, do nguồn
gốc hình thành của nó mà người ta gọi nói là Hán-Việt. Và chính cách gọi này,
khiến cho nhiều người lầm tưởng, hắt hủi nó cho rằng nó không phải Việt Nam.
Thứ hai, kho tàng từ Hán-Việt
hình thành hơn 2.000 năm nay, đó là bộ phận không thể thiếu được của tiếng Việt.
Điều này khỏi phải chứng minh, nó biểu hiện trong đời sống quá rõ.
Nay bàn thêm về điều thứ nhất
trên đây.
Người Tàu mang chữ viết của họ
sang Việt Nam, dùng chữ viết ấy làm văn tự hành chính chính thức. Nhưng các cụ
Việt không uốn lưỡi đọc theo họ, thành ra hình thành nên vốn từ mà người ta gọi
là Hán-Việt. Thực chất đó là tiếng Hán bồi. Mở ngoặc thêm là không nhất định gốc
nó là từ Hán, mà phần nhiều là từ tiếng Quảng. Chắc chắn là 200 năm nước Nam Việt,
sau đó thuộc Ngô, thì lãnh thổ nước ta đều tiếp xúc với tiếng Quảng, thứ tiếng
mà người Hán Bắc Kinh cũng gọi là Việt ngữ. Vậy tóm lại, người Việt Nam đã sáng
tạo tiếng nói căn cứ vào hệ thống chữ và âm của chữ Hán, tiếng Hán, tiếng Quảng
Đông. Đó dứt khoát là tiếng Việt, không thể là tiếng của ai khác. Vì đơn giản rằng,
người Quảng, người Hán không nói như vậy.
Ví dụ người Việt có từ "to
lớn", chữ Hán có chữ 大, phát âm Hán (theo phiên
âm) là "dà" (tương tự từ ta), còn người Việt đọc là "đại".
Và tất cả những từ đồng âm người Trung Quốc đọc như thế, người Việt đều đọc là
"đại".
Như vậy hình thành một ánh xạ
1-1 giữa các từ Hán đọc chữ Hán và từ Việt đọc chữ Hán. Đó là ứng xử riêng biệt
của người Việt cổ, để lại kho tàng từ ngữ cho các thế hệ sau.
Từ Hán-Việt không thể thiếu để
diễn tả từ trừu tượng, bóng bẩy, văn chương, có ý nghĩa triết học, hoặc hành
chính, kinh tế, khu vực ngữ nghĩa mà từ Việt gốc (Nôm) không diễn tả được, vì lịch
sử phát triển của nó đã bị chặn khi có kho tàng từ Hán-Việt.
Ví dụ: "Độc lập, Tự do, Hạnh
phúc", có nghĩa đen là "Một mình, tha hồ, sung sướng", nhưng chỉ
hiểu theo nghĩa đen thì quá hẹp thành ra không ổn.
Trong đời sống, cụ Hồ ngày xưa
có ý thức thay từ Hán-Việt bằng từ thuần Việt, cụ bảo từ nào tiếng Việt đã
có rồi thì nên dùng từ thuần Việt. Có trường hợp được, ví dụ phi cơ, thay bằng
máy bay. Cũng có nhiều trường hợp không ổn, ví dụ phi công thay bằng "người
lái máy bay" thì lại dài dòng, hay như "nữ dân quân" thay bằng
"dân quân gái" thì lại không được, bởi "nữ" và
"gái" khác nhau.
Tóm lại, kho tàng từ Hán-Việt
chính là từ Việt, đừng nên rẻ rúng nó. Có thể các nhà ngôn ngữ nên đề nghị một
cái tên khác để gọi, thay cho cách gọi "từ Hán-Việt" lâu nay để nhiều
người khỏi hiểu lầm.
Sau này, khi thuộc Pháp, các cụ ở
thế kỷ 19 đã ứng xử với tiếng Pháp truyền thống tương tự cổ xưa người Việt ứng
xử với tiếng Hán, nhưng hai thứ tiếng khác nhau quá xa, nên chỉ hình thành lối
"Pháp bồi", và một số từ kỹ thuật, ví dụ "xà phòng",
nhà "ga"... Bây giờ ai bảo từ "ga" không phải từ Việt?
Nguyễn Xuân Hưng
Nhận xét
Đăng nhận xét