NHÀ NGUYÊN TÍNH DÙNG CẢ TRIỆU NGƯỜI ĐÁNH ĐẠI VIỆT - DÂN HÁN LẦM THAN
Kỳ 56
____
____
NHÀ NGUYÊN TÍNH DÙNG CẢ TRIỆU NGƯỜI ĐÁNH ĐẠI VIỆT
DÂN HÁN LẦM THAN
"Dân chúng kêu than, tứ dân bỏ nghiệp. Người nghèo phải bỏ con để
cầu sống, kẻ giàu phải bán sản nghiệp để ứng dịch. Nỗi khổ như bị treo ngược, mỗi
ngày một tăng. Nay lại có việc đánh Giao Chỉ, điều động đến trăm vạn người (1),
tiêu phí đến nghìn vàng, đó chẳng phải là việc để thương sĩ dân".
Nguyên Mông chuẩn bị xâm lược trong bối cảnh khó khăn hơn lần xâm lược
trước. Ở các vùng phía nam nước Nguyên, việc lao dịch, bắt lính, vơ vét thuế
má, lương thực đã khiến cho dân chúng nhiều nơi lâm vào cảnh khốn cùng, rủ nhau
phất cờ khởi nghĩa. Quân đội nhà Nguyên hùng mạnh, tạm thời vẫn làm chủ tình
hình nhưng việc này đã khiến cho quá trình chuẩn bị xâm lược Đại Việt gặp trở
ngại lớn. Một số quan lại địa phương nước Nguyên còn có lòng thương dân, liên
tiếp tâu trình xin Hốt Tất Liệt giãn tiến độ chuẩn bị. Khoảng tháng 7.1285,
Tuyên úy ti Hồ Nam đã dâng sớ xin Hốt Tất Liệt hoãn binh:
“Luôn năm đánh Nhật Bản và dùng binh ở Chiêm Thành, trăm họ phục dịch vận
chuyển rất vất vả cực nhọc, quân sĩ mắc phải chướng lệ chết rất nhiều. Dân
chúng kêu than, tứ dân bỏ nghiệp. Người nghèo phải bỏ con để cầu sống, kẻ giàu
phải bán sản nghiệp để ứng dịch. Nỗi khổ như bị treo ngược, mỗi ngày một
tăng. Nay lại có việc đánh Giao Chỉ, điều động đến trăm vạn người (1),
tiêu phí đến nghìn vàng, đó chẳng phải là việc để thương sĩ dân. Vả lại trong
lúc cử động, lợi hại không phải chỉ là một. Lại thêm nữa, Giao Chỉ vẫn
thường sai sứ dâng biểu xưng phiên thần. Nếu theo lời xin để phục hồi sức dân
thì là kế hay nhất. Nếu không được thì nên nới phú thuế cho trăm họ, chứa lương
thực, sắm giáp binh, đợi đến năm sau thiên thời địa lợi tất hơn chút nữa hãy
cất quân cũng chưa muộn”.
Hành tỉnh Hồ Quảng là Tuyến Kha (Sanag) đem sớ vào triều còn nói
thêm: “Tỉnh tôi trấn giữ hơn 70 sở, luôn năm chinh chiến, quân sĩ tinh nhuệ
đều mệt nhọc ở ngoài, kẻ còn lại đều già yếu, mỗi thành ấp nhiều không quá hai
trăm quân, trộm nghĩ rằng sợ kẻ gian dò xét được tình hình đó. Năm ngoái bình
chương A Lý Hải Nha xuất chinh, thu 3 vạn thạch lương, dân còn kêu khổ. Nay lại
thu gấp bội số đó, quan không có tích trữ, còn mua ở trong dân, trăm họ sẽ khốn
khổ khôn xiết. Nên theo lời của tuyên úy ti, xin hoãn quân đánh phương Nam”.
Ngay trong triều đình trung ương nước Nguyên cũng có người không mong
muốn việc khởi binh đánh Đại Việt. Lễ bộ thượng thư nước Nguyên là Lưu Tuyên
tâu xin Hốt Tất Liệt nên đàm phán với Đại Việt, tránh nạn binh đao:
“Luôn năm đánh Nhật Bản, trăm họ sầu oán, quan phủ nhiễu nhương. Mùa
xuân năm nay bãi binh, quân dân Giang Chiết reo mừng như sấm. An Nam là nước nhỏ,
thần phục đã bao năm, tuế cống chưa từng sai hạn. Vì tướng ở biên sinh sự hưng
binh, nên kẻ kia trốn tránh ra hải đảo, khiến cất đại quân đi mà không được
công trạng gì, tướng sĩ lại bị thương tổn. Nay lại hạ lệnh đi đánh nữa, ai nghe
thấy cũng lo sợ. Từ xưa dấy quân, tất phải theo thiên thời. Ở vùng trung nguyên
đất bằng còn phải tránh giữa mùa hạ. Giao Quảng là đất viêm chướng, khí độc hại
người còn hơn là binh đao. Nay định tháng 7 họp các đạo quân ở Tĩnh Giang đến
An Nam tất nhiều người mắc bệnh chết, lúc cần cấp gặp giặc biết lấy gì ứng phó.
Ở Giao Chỉ lại không có lương, đường thủy khó đi, không có xe ngựa, trâu bò
chuyên chở thì không thể tránh được vận chuyển đường bộ. Một người phu gánh 5 đấu
gạo, đi về ăn hết một nửa, còn quan quân được một nửa. Nếu có 10 vạn thạch
lương, dùng 40 vạn người cũng chỉ có thể có lương cho quân 1, 2 tháng. Chuyên
chở, đóng thuyền, phục dịch việc quân phải dùng đến 5, 60 vạn người. Quảng Tây,
Hồ Nam điều động nhiều lần, dân ly tán nhiều, lệnh cho cung dịch cũng không thể
làm được. Huống chi Hồ Quảng rất gần khe động, trộm cướp thường nhiều, vạn nhất
kẻ gian dò được, chờ đại quân một khi đi khỏi, thừa lúc bỏ không mà gây biến.
Tuy có quân mã lưu lại nhưng là người già yếu mệt nhọc, khó bề ứng biến. Sao
không cùng người hiểu biết sự thể trong quan quân bên kia mà bàn bạc phương lược
vạn toàn. Nếu không thì sẽ giẫm vào vết xe cũ”.
Những lời can gián của Lưu Tuyên rất thấu tình đạt lý. Không chỉ viên
quan này nghĩ cho nhân dân hai nước, mà thực sự lợi ích của Nguyên triều cũng
được y phân tích rất chính xác. Bấy giờ miền nam nước Nguyên dân tình đã quá cơ
cực, những hào kiệt chỉ chực chờ cơ hội để nổi dậy. Việc trọng đại của nước
Nguyên bấy giờ là tạo phúc cho dân, thu phục lòng dân để có được căn cơ vững chắc.
Hòa bình với Đại Việt sẽ giúp cho đôi bên cùng thắng. Hốt Tất Liệt dù rất nóng
lòng tiến hành nam chinh, vẫn không thể bất chấp tất cả. Mặc dù không có lòng
trắc ẩn thương dân đi chăng nữa, thì vua Nguyên cũng không thể không xét đến những
nguy cơ. Bởi vậy, Hốt Tất Liệt sau khi suy xét đã một lần nữa hạ lệnh tạm hoãn
việc xuất quân. Gươm đã tuốt khỏi vỏ lại phải tạm cất đi.
Nhưng Hốt Tất Liệt hẳn là không nghĩ giống như Lưu Tuyên. Tham vọng
bành trướng và lòng hận thù của hắn vẫn còn đó. Khi mà khó khăn trong nước tạm
thời dịu xuống, công cuộc chuẩn bị cho việc xâm lược Đại Việt lại được tiến
hành mạnh mẽ.Việc chuẩn bị càng dời tiến độ, thì binh lực của đạo quân xâm lược
càng to lớn hơn. Cuối năm 1286, ngựa chiến được cấp thêm cho Thoát Hoan. Chinh
Giao Chỉ hành tỉnh được lập ra, giao cho A Bát Xích (Abaci) làm Hữu thừa. Tháng
giêng năm 1287, Hốt Tất Liệt hạ lệnh điều động thêm quân lính. Gồm có 1.000
quân Tân Phụ (người Nam Tống cũ ), 7 vạn quân Mông Cổ và quân Hán (người nước
Kim cũ), 6.000 quân Vân Nam (người nước Đại Lý cũ), 15.000 quân người Lê (đảo Hải
Nam)… cùng với một số quân người Choang (người Âu Việt ở Quảng Tây). Số quân
tăng thêm này cộng với những quân lính đã điều động từ trước và tàn quân của lần
xâm lược trước chạy về, gộm chung toàn bộ đạo quân Nguyên xâm lược nước Đại Việt
lần này theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư là 30 vạn quân. Một số tướng lĩnh cũng được
tăng cường thêm dưới quyền Thoát Hoan là Ái Lỗ (Aruq), Tích Đô Nhi (Siktur),
Trương Ngọc, Lưu Khuê…
Rút kinh nghiệm từ thất bại lần trước, quân Nguyên trang bị hai hạm
thuyền lớn. Hạm đội tải lương dưới quyền của Trương Văn Hổ, chở theo 17 vạn thạch
lương (có sách chép 70 vạn) để giúp đảm bảo hậu cần cho quân Nguyên, giảm bớt sự
lệ thuộc vào việc tải lương đường bộ vốn rất khó khăn và tốn nhiều nhân lực. Hạm
đội chiến đấu gồm có cả thảy hơn 600 chiến thuyền dưới quyền tổng chỉ huy của Ô
Mã Nhi, với hàng vạn thủy quân tinh nhuệ nhất của nước Nguyên là những sắc quân
người Lê đảo Hải Nam, quân Tân Phụ miền Giang Nam. Hạm đội của Ô Mã Nhi có nhiệm
vụ đánh mở đường và hộ tống đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, đồng thời sẽ
là một lực lượng quan trọng để phá tan ưu thế thủy chiến của quân Đại Việt.
Cuối thu năm 1287, quân Nguyên đã tập kết thành ba khối quân. Khối đại
quân do Thoát Hoan trực tiếp chỉ huy tập kết tại Quảng Tây. Khối quân ở Vân Nam
dưới quyền tổng chỉ huy của Ái Lỗ là khối quân phối hợp. Khối thủy quân Nguyên
dưới quyền của Ô Mã Nhi, Trương Văn Hổ tập kết ở Khâm Châu, sẵn sàng vượt biển
tiến vào Đại Việt. Lần xâm lược này, quân Nguyên có tổng quân số ít hơn lần trước
nhưng đặc biệt nguy hiểm là thủy quân của chúng được tăng cường mạnh mẽ hơn rõ
rệt. Trong lần xâm lược trước, quân Nguyên cực mạnh về kỵ bộ nhưng cách điều
quân của Đại Việt đã khiến cho nhiều lực lượng kỵ bộ của quân Nguyên trở thành
“người thừa”. Trái lại, thủy quân tinh nhuệ là lực lượng mà quân Nguyên trong lần
xâm lược năm 1285 rất cần nhưng lại thiếu thốn. Lần này, sức mạnh quân Nguyên
cân đối hơn giữa thủy và bộ, lại chú trọng hậu cần hơn trước. Dù binh lực thủy
bộ đều rất hùng hậu, Nguyên chủ Hốt Tất Liệt vẫn chưa hoàn toàn yên tâm. Gần
sát ngày tiến quân, Hốt Tất Liệt ra chỉ dụ căn dặn các tướng : “Không được
cho Giao Chỉ là nước nhỏ mà khinh thường”.
Quốc Huy
Nhận xét
Đăng nhận xét