MẠNG XÃ HỘI VÀ TỰ DO NGÔN LUẬN
MẠNG XÃ HỘI
VÀ TỰ DO NGÔN LUẬN
Mạng xã hội vốn là như vậy và ở
phương Tây nó đang là như vậy, nhưng ở Việt Nam nó đang có vấn đề. Các địa chỉ
người dùng trên facebook, trên blog, các wesite tự tạo…, thường được gọi chung
là “báo chí lề trái”, không bị cấm, mà muốn cấm cũng không cấm được, nên mặc
nhiên chúng tồn tại hợp pháp. Hợp pháp, nhưng nó không bị chi phối bởi Luật Báo
chí và các quy định khác. Còn báo chí truyền thống thì được điều chỉnh bởi Luật
Báo chí, các quy định dưới luật, các văn bản chỉ đạo và thậm chí phải tuân thủ
ý kiến “chỉ đạo miệng”. Nói ở Việt Nam ít tự do ngôn luận là không đúng.
Bằng chứng là thông tin trên mạng
xã hội, dù nặc danh hay chính danh, đều có thể “nói” ở mức độ tự do ngang bằng
với bất cứ một nước phương Tây nào. Hơn thế nữa, mạng xã hội ở Việt Nam còn “tự
do” đến mức thoải mái vu khống, bịa đặt, bôi nhọ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của
người khác nhưng chỉ bị luật pháp xử lý một cách lẻ tẻ, nghĩa là chỉ một số người
bị xử lý còn đa số thì không, dù những địa chỉ phát tán các thông tin này là
chính danh. Tình trạng này dẫn đến sự bất bình đẳng lớn trong truyền thông mà lợi
thế áp đảo nghiêng về phía mạng xã hội, báo chí chính thống ngày càng bị lép vế.
Cần nhìn qua nước Mỹ, để xem luật
pháp nước họ xử lý vấn đề tự do ngôn luận như thế nào. Nước Mỹ không có đạo luật
nào về tự do báo chí, tự do ngôn luận. Quyền này chỉ được ghi tại một điều khoản,
chính xác là được ghép trong một điều khoản, đó là Tu chính án thứ nhất của Hiến
pháp Mỹ. Toàn văn của Tu chính án này như sau : “Congress shall make no law
respecting an establishment of religion, or prohibiting the free exercise
thereof; or abridging the freedom of speech, or of the press; or the right of
the people peaceably to assemble, and to petition the Government for a redress
of grievances” (Quốc hội không được ban hành đạo luật nào nhằm thiết lập tôn
giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, hoặc hạn chế tự do ngôn luận hay báo chí
hoặc quyền của dân chúng được hội họp và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều
gây bất bình”.
Như lời văn của nó cho thấy, điều
khoản này cũng không quy định người dân có quyền tự do ngôn luận hay báo chí,
nó chỉ ngăn chặn Nhà nước ra các đạo luật làm hạn chế quyền này mà thôi. Vì sao
vậy? Vì đối với các nhà lập quốc Hoa Kỳ, đây là một trong những “quyền tự
nhiên” của con người, không ai đủ tư cách ban phát, Hiến pháp chỉ ngăn chặn việc
xâm phạm quyền tự nhiên ấy mà thôi. Có thể thấy Tu chính án thứ nhất được ban
hành để “răn đe” chính quyền, không phải để “răn đe” người dân hay báo
chí.
Nước Mỹ không có báo chí “lề phải”
hay “lề trái”, “lề” nào cũng được điều chỉnh bởi Tu chính án thứ nhất. Vì vậy,
khi các công cụ truyền thông trên Internet phát triển như vũ bão, họ chẳng có
lý do gì để thay đổi hay “tăng cường”, “củng cố” luật pháp. Tuy nhiên, việc sử
dụng truyền thông để đưa tin sai sự thật hay bôi nhọ, xúc phạm người khác thì
luật pháp Mỹ xử lý rất nghiêm, thông qua tòa án. Việc phỉ báng cá nhân ở Mỹ được
luật pháp điều chỉnh rất thú vị. Thời thuộc địa, cho tới năm 1734, việc phỉ
báng quan chức, dù nội dung có đúng hay không, đều phạm tội.
Nhưng từ năm 1734, khi Hoa Kỳ vẫn
còn là thuộc địa của Anh, đã có một vụ án lịch sử, đó là vụ Zenger. John Peter
Zenger, một chủ báo ở New York đã cho đăng bài trên tờ New York Weekly Journal
của mình, công kích viên Thống đốc Hoàng gia Anh tại đây, cho ông này là bất
tài và nhận hối lộ. Zenger đã phải vào tù vì tội phỉ báng.
Nhưng người bào chữa cho Zenger,
luật sư Andrew Hamilton, đã làm nên một bước ngoặt về pháp lý khi ông chứng
minh những lời “phỉ báng” của Zenger là không sai và đã thuyết phục tòa án
tuyên bố Zenger vô tội. Vụ Zenger đã tạo ra một tiền lệ quan trọng: Từ đây,
trong những vụ kiện về tội phỉ báng (ngày nay đều là các vụ kiện dân sự),
nguyên đơn chỉ cần chứng minh được lời phỉ báng đó là sai sự thật thì thắng kiện.
Đó là bước tiến lớn về quyền tự do ngôn luận ngay giữa chế độ thuộc địa mà giá
trị pháp lý của nó tồn tại đến ngày nay.
Tuy nhiên, đến năm 1964 có sự
“phân biệt đối xử” lý thú, bắt đầu từ vụ án lịch sử: Vụ New York Times kiện
Sullivan. Vụ kiện xuất phát từ một trang quảng cáo đăng trên tờ New York Times
của một số mục sư nhằm quyên tiền để bào chữa cho nhà hoạt động nhân quyền lừng
danh nước Mỹ - mục sư Martin Luther King, sau khi ông bị bắt giam. L.B
Sullivan, người phụ trách Sở cảnh sát thành phố Montgomery, bang Alabama, cho rằng
nội dung quảng cáo đã nói không đúng về các hành vi của lực lượng cảnh sát và
phỉ báng mình, nên đã kiện New York Times và các mục sư ra tòa án. Xét thấy nội
dung quảng cáo có một số thông tin không đúng, tòa án đã quyết định cho
Sullivan thắng kiện, buộc các bị đơn phải bồi thường cho ông này 500 ngàn
USD.
New York Times và các mục sư đã
kháng cáo lên Tối cao pháp viện. Tòa tối cao cho rằng không thể dùng các quy định
điều chỉnh về tội phỉ báng để áp đặt hình phạt đối với việc phê phán hành vi ứng
xử của các công chức, rằng dù nội dung phê phán có sai sót nhưng việc yêu cầu
những người phê bình các quan chức phải bảo đảm độ chính xác trong phát biểu của
họ là hành động “tự kiểm duyệt”. Tòa cũng cho rằng, những công chức Nhà nước muốn
thắng kiện trong trường hợp này không chỉ phải chứng minh những nội dung được
đăng tải là sai mà còn phải chứng minh những người đăng tải nội dung này là “có
ác ý”, nhưng tòa nhận thấy rằng không có bằng chứng nào chứng tỏ tờ New York
Times và các mục sư đã “có ác ý” khi đăng nội dung đó.
Vì vậy, Tòa tối cao phán quyết
New York Times và các mục sư thắng kiện. Phán quyết của Tối cao pháp viện Hoa Kỳ
trong vụ án lịch sử này có giá trị như một điều luật, và hơn thế nữa, nó có giá
trị ngang với một điều khoản của Hiến pháp, để từ thời điểm này áp dụng cho tất
cả các vụ kiện về tội phỉ báng: một nguyên đơn là quan chức Nhà nước muốn thắng
kiện nhất thiết phải chứng minh rằng những lời phỉ báng của bị đơn là sai, đồng
thời phải chứng minh được cái sai đó là “có ác ý”. Ngoạn mục hơn, là án lệ của
vụ New York Times kiện Sullivan không chỉ dành cho các quan chức nhà nước mà
còn được Tối cao pháp viện mở rộng luôn cho những “nhân vật của công chúng”,
bao gồm các ngôi sao giải trí, các nhà văn nổi tiếng, các vận động viên thể
thao và những người “thường xuyên thu hút sự quan tâm của giới truyền
thông”.
Có lẽ các đại thẩm phán Hoa Kỳ
anh minh đã tiên liệu những hạn chế có thể có về tự do ngôn luận nên đã đưa ra
một án lệ quan trọng để phòng ngừa, án lệ này còn có tác dụng ngăn chặn bớt sự
tham quyền cố vị và thói háo danh ở nước Mỹ. Tóm lại, đúng hay sai, thiếu hay đủ
là do những góc nhìn, nhưng luật pháp của Mỹ trong lãnh vực tự do ngôn luận là
minh bạch và hoàn toàn có thể dự đoán được, cho nên mọi người đều cảm thấy an
toàn. Từ người dân cho tới các chính khách, quan chức, người nổi tiếng hay báo
chí chẳng ngán gì những kẻ làm bậy, nói bậy. Những kẻ làm bậy, nói bậy cũng
tiên lượng được cái giá mà họ phải trả.
Ở Việt Nam, tôi không nghĩ là
không có tự do ngôn luận. Vấn đề là hệ thống luật pháp của chúng ta trên lãnh vực
này đang bị “biến thái”, dung túng cho kẻ gian và hạn chế tiếng nói của người
ngay. Một bên là các mạng xã hội, được truyền tải thông tin trên “băng thông rộng”
và một bên là báo chí chính thống, chỉ truyền tải thông tin trên “băng thông hẹp”.
Chẳng có một “thế lực thù địch” nào đủ sức kéo được công chúng vào con đường giả
dối, phản động hay đồi trụy. Chính sự “biến thái” nói trên đang đẩy công chúng
vào “lề trái”, nơi họ nghĩ sẽ tìm được “của ngon vật lạ”.
Các nhà lãnh đạo chính trị đang
phải tập thói quen cây ngay không sợ chết đứng khi các vị bị chửi bới tơi bời
khói lửa trên mạng mà chính các vị và những người bảo vệ các vị cũng không có
nơi có chốn để nói lại một cách đàng hoàng sòng phẳng.
Không phải người dân mà chính
các vị mới là nạn nhân lớn nhất của tình trạng “biến thái” này. Bởi vậy, đã đến
lúc nghĩ đến một khung pháp lý đủ rộng, đủ công bằng và minh bạch theo nguyên tắc
pháp trị về tự do ngôn luận, sao cho báo chí chính thống cũng được hưởng cơ hội
ngang bằng với mạng xã hội. Khi ấy, mạng xã hội dù có còn rác rưởi, ít hay nhiều
cũng không thành vấn đề.
HOÀNG HẢI VÂN
Nhận xét
Đăng nhận xét