KHÔNG AI “LẤY TRÂU ĐỊNH NGHĨA BÒ" BAO GIỜ
KHÔNG AI “LẤY TRÂU ĐỊNH NGHĨA BÒ,
LẤY BÒ ĐỊNH NGHĨA TRÂU” BAO GIỜ
Cách định nghĩa “Ếch là Loài nhái mình lớn, thịt ngon” và “Nhái là Loại
ếch lớn” là cách định nghĩa vòng quanh, mà trong định nghĩa từ điển học người
ta kỵ.
Với những thông tin phản ánh về cách giải thích nghĩa có phần thiếu
chính xác, thậm chí sai sự thật trong bài viết “Từ điển Tiếng Việt: “Đền
là Chỗ vua ở”, có ai tin được không?, phóng viên Báo Giáo dục Việt Nam đã
liên hệ với chuyên gia ngôn ngữ PGS.TS Phạm Văn Tình (Viện Từ điển học và Bách
khoa thư Việt Nam) để tìm hiểu thêm về những bất cập trong cuốn Từ điển Tiếng
Việt dành cho học sinh lớp 1,2,3 của hai tác giả Khắc Trí và Trọng Tấn do NXB Đồng
Nai phát hành.
Nói một cách tổng quát, PGS.TS Phạm Văn Tình cho rằng nội dung của cuốn
từ điển thiếu tính hệ thống, chọn lựa bảng từ tùy tiện, nhiều từ chỉ là tổ hợp
tự do chứ không phải là từ (không có tính định danh). Định nghĩa tùy hứng, theo
kiểu gán ghép cơ học mà quên rằng nghĩa các từ ghép không chỉ là các cộng thô
thiển giữa các yếu tố.
Ví dụ, từ “bắc thang” không phải là một từ, chỉ là một kết hợp tự do,
trong đó “bắc” là động từ, “thang” là bổ ngữ cho từ “bắc”.
Đi vào cụ thể một số từ, PGS.TS Phạm Văn Tình cho biết: “Với từ “ếch”
phải định nghĩa dựa trên đặc điểm của con vật này, chẳng hạn như “Ếch là Loài động
vật có xương sống, không đuôi, thân ngắn, da trơn, màu sẫm, sống ở ao đầm, thịt
ăn được” chứ không ai định nghĩa ếch thịt ngon bao giờ”, hoặc từ “Nhái là Động
vật thuộc loài ếch nhái, đầu ngón chân nở rộng, sống ở trong các bờ ruộng, bụi
cây”.
Ông cho biết thêm, ếch và nhái là hai con cùng họ nhưng không phải là một.
Cách định nghĩa “Ếch là Loài nhái mình lớn, thịt ngon” và “Nhái
là Loại ếch lớn” là cách định nghĩa vòng quanh, mà trong định nghĩa từ
điển học người ta kỵ. “Có thể dùng từ “bao” với nghĩa bao hàm trong định nghĩa
một số từ, chẳng hạn trâu là gia súc... hoặc bò cũng là gia súc... không ai lấy
trâu để định nghĩa bò, lấy bò định nghĩa trâu bao giờ”.
Với từ “Đền”, PGS.TS Phạm Văn Tình giải thích, có hai nghĩa “nơi vua ngự
ngày trước, ví dụ Đền Rồng” và “nơi thờ thần thánh, thần linh”. Tuy nhiên,
nghĩa “Đền là Nơi vua ngự ngày trước” có từ lâu rồi, giờ ít dùng hoặc không
dùng nữa. Khi giải thích cho học sinh hiểu, phải dùng nghĩa hiện nay đang dùng,
nghĩa cơ bản, phổ biến “Đền là Nơi thờ thần thánh, thần linh”, còn những nghĩa
xa chỉ để biết thôi.
Với từ “anh chị” khi giải nghĩa và đưa vào từ điển dành cho học sinh
nên lấy nghĩa gần gũi với các em “Anh chị là Anh và chị trong gia đình; thường
dùng để chỉ những người cùng thế hệ, ở hàng trên, có quan hệ gần gũi, thân thiết
(nói khái quát)” chứ không nên đưa nghĩa "Anh chị là Đàn anh sừng sỏ trong
bọn lưu manh”, không phù hợp với đối tượng sử dụng.
Do đó, theo PGS.TS Phạm Văn Tình, đối với các từ có nhiều nghĩa, việc lựa
chọn các nghĩa phải cân nhắc, là phải căn cứ vào nghĩa phổ biến mà cộng đồng
đang sử dụng, đầu tiên phải ưu tiên nghĩa chính, cơ bản, sao mới đến nghĩa phái
sinh.
Cuốn
từ điển đã lựa chọn một nét nghĩa để giải nghĩa cho từ nhưng chưa phù hợp với đối
tượng sử dụng
Ở đây, “đọc từ điển này các tác giả chỉ giới thiệu duy nhất một nghĩa,
không có nhiều nghĩa trong những từ cần phải “chiết” ra các nghĩa khác nhau” –
ông cho biết thêm. Chẳng hạn như các từ “anh chị”, “anh em”,... chỉ có một
nghĩa trong khi những từ này có thể có nhiều hơn 1 nghĩa, thậm chí hàng chục
nét nghĩa.
Cũng theo PGS.TS Phạm Văn Tình, đối với những sai sót của cuốn từ điển
này, trước hết lỗi thuộc về tác giả. Tác giả thiếu thận trọng, thậm chí không
có tri thức từ điển học. Về phía nhà xuất bản đã chủ quan, đơn giản hóa, không
có sự giám định, biên tập cẩn thận. Về phía cơ quan quản lí xuất bản đã buông lỏng
công việc thẩm định, lưu chiểu...
PGS.TS Phạm Văn Tình cũng đưa ra một số lưu ý khi làm từ điển cho học
sinh, đối với cuốn từ điển cỡ lớn cần đưa nhiều nét nghĩa, nhưng với đối tượng
học sinh cần chọn nghĩa tiêu biểu, cơ bản, thân thuộc, xã hội đang dùng. Chọn bảng
từ thích hợp cho trẻ em, phù hợp với khả năng lĩnh hội của các em, không cần
thiết phải đưa các từ quá khó vào. Đối với trẻ em, đưa nhiều từ vào các em cũng
khó lĩnh hội, sau này lớn lên các em sẽ dần dần tìm hiểu thêm các nét nghĩa
khác.
Ông cũng lưu ý thêm rằng, từ điển dành cho học sinh phải có thêm các ví
dụ. Ví dụ có thêm giúp học sinh hiểu hơn về nghĩa của từ. Giải nghĩa chỉ là bộ
xương, còn ví dụ làm nên cơ cấu một cuốn từ điển, giúp trẻ em hiểu đúng trong
ngữ cảnh cụ thể. Một ví dụ tốt nhất là ví dụ trong văn học, trong đời sống.
Theo PGS.TS Phạm Văn Tình, đối với phụ huynh khi lựa chọn từ điển cho
con thường tin vào các nhà xuất bản, nghĩ ấn phẩm nhà xuất bản tốt rồi, sử dụng
một thời gian mới phát hiện ra lỗi sai đó, còn học sinh cứ tra cứu dẫn tới hệ lụy
lan tỏa bởi từ điển là sách công cụ lại được sử dụng nhiều năm.
Do đó, PGS.TS Phạm Văn Tình lưu ý các phụ huynh khi lựa chọn từ điển
cho con nên chọn nhà xuất bản, trung tâm nghiên cứu từ điển uy tín.
Hồng Nhung
Nhận xét
Đăng nhận xét