Kỳ 66 -NHÀ TRẦN LUẬN CÔNG BAN THƯỞNG TRỪNG TRỊ KẺ HÀNG NGUYÊN
Kỳ 66
--------
NHÀ TRẦN LUẬN CÔNG BAN THƯỞNG
TRỪNG TRỊ KẺ HÀNG NGUYÊN
Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 3 của quân dân nước Đại Việt
khép lại với chiến thắng vẻ vang. Ngày 18.04.1288, Thượng hoàng Trần Thánh
Tông, vua Trần Nhân Tông cùng quần thần, quân đội đem bọn tù binh Tích Lệ Cơ Ngọc,
Ô Mã Nhi, các thiên hộ, vạn hộ quân Nguyên bị bắt về phủ Long Hưng, làm lễ mừng
công trước Chiêu lăng (lăng mộ vua Trần Thái Tông). Trong chiến tranh quân
Nguyên tiến vào lăng muốn đào mộ vua Trần Thái Tông nhưng tìm mãi không thấy
quan tài. Đến khi bái yết, vua Trần Nhân Tông thấy chân ngựa đá trong lăng đều
lấm bùn, cho rằng thần linh đã ngầm giúp. Cảm khái vì sự bi tráng của chiến
tranh và chiến công của quân dân Đại Việt, vua Trần Nhân Tông đã làm đôi dòng
thơ:
“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu”
Dịch thơ :
Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,
Non sông nghìn thưở vững âu vàng
Khi triều đình về lại Thăng Long, cung điện đã bị quân Nguyên đốt phá.
Đến nỗi Thượng hoàng Trần Thánh Tông phải ngự ở hàng lang Thị Vệ để làm việc.
Triều đình ra lệnh đại xá cả nước, những nơi chịu thiệt hại do chiến tranh đều
xem xét miễn giảm thuế khóa, phu dịch tùy theo mức độ.
Khi định công lao dẹp giặc, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn lĩnh công đầu.
Vì ngài đã tột bực vinh hiển, nên vua phong thêm tước Đại vương. Con trai Hưng
Đạo vương là Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn có công lớn được phong làm Khai Quốc
công, Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng được phong Tiết độ sứ. Đỗ Khắc Chung có
công lao và dũng khí đi sứ trong lúc chiến sự cam go, được ban quốc tính, gọi
là Trần Khắc Chung. Quản lĩnh quân Thánh Dực là tướng Nguyễn Khoái được phong
tước Liệt hầu, được ban cho một hương (làng) làm thái ấp, sau gọi là hương
Khoái Lộ. Tù trưởng Lạng Giang Lương Uất có quân công nên được phong làm Trại
chủ Quy Hóa. Tù trưởng Hà Tất Năng có công chỉ huy người thiểu số đánh giặc, được
phong tước Quan phục hầu.
Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện cũng có công lao rất lớn, nhưng vì cãi lệnh
vua đem quân đánh bọn Thoát Hoan trong khi vua đã hạ lệnh thả cho chúng một con
đường sống nên ông không được phong thưởng. Nội minh tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã
Nhi, là lập được đại công nhưng vì không dâng lên vua mà lại dâng lên Thượng
hoàng nên bị bắt tội bất kính, chỉ được phong tước Quan nội hầu.
Bấy giờ người trong nước lập được quân công rất nhiều mà chức tước, bổng
lộc của triều đình thì có giới hạn. Việc thưởng công xong rồi, nhiều người vẫn
cho là sơ sài. Thượng hoàng Trần Thánh Tông bèn dụ rằng:
"Nếu các khanh biết chắc là giặc Hồ không vào cướp nữa thì nói rõ
cho trẫm biết, dù có thăng đến cực phẩm trẫm cũng không tiếc. Nếu không thế mà
đã vội thưởng hậu, vạn nhất giặc Hồ trở lại, và các khanh lại lập công nữa thì
trẫm lấy gì mà thưởng để khuyến khích thiên hạ" (theo Đại Việt sử ký
toàn thư).
Lời dụ ban xuống, mọi người đều bằng lòng. Triều đình lại cho vẽ chân
dung, ghi công trạng những người có chiến công đặc biệt trong hai cuộc chiến
(kháng chiến chống Nguyên lần 2, lần 3) vào sách Trùng Hưng Thực Lục.
Đến lúc xét xử người kẻ hàng giặc, những nhân dân và quân lính được miễn
tội chết nhưng bị bắt phải chịu phu dịch nặng nề, chuyên chở gỗ đá để xây dựng
cung điện. Các quan viên hàng giặc thì bị nghiêm trị tùy theo tội trạng. Những
hương sớm hàng giặc là Bàng Hà, Ba Điểm thì bắt dân ở đó đời đời chỉ được làm
lính, làm nô, không được đi thi hay tiến cử làm quan, làm tướng.
Khi quân Nguyên rút chạy, quân ta bắt được một hòm chứ đầy văn thư ước
hẹn xin hàng của các vương hầu, quan lại. Khi đem hòm ấy ra, nhiều kẻ run sợ.
Thượng hoàng sai quân đem đốt hòm ấy đi để tỏ sự khoan hồng. Còn lại những kẻ
phản quốc từ trước, đã lộ hình tích thì triều đình thẳng tay trừng trị. Đến như
Trần Kiện đã chết rồi vẫn đem ra xử, cho đổi sang họ Mai. Trần Lộng cũng bị đổi
thành Mai Lộng. Trần Ích Tắc vì là tôn thất rất gần nên không thể đội họ, bị gọi
là Ả Trần (ngụ ý nhút nhát như đàn đà) ... Về việc này, các ý kiến thời hiện đại
thường trách vua Trần trọng nam khinh nữ. Bởi lẽ đàn bà Đại Việt cũng nghĩa khí
chẳng kém đàn ông. Ý kiến của sử gia Nguyễn Khắc Thuần có thể coi là tiêu biểu
cho luồng tư tưởng đương đại: “Than ôi, sử thần xưa đã nương tay không phải
chỗ, đàn bà thời Trần dũng cảm đánh giặc, để lại biết bao gương sáng cho đời
sau noi theo, nào ai hèn nhát và cam tâm theo giặc như Trấn Ích Tắc
đâu!” (theo Việt Sử giai thoại).
Cận thần rất được tin dùng của vua Trần Nhân Tông là Đặng Long trước
đây vua đã định phong làm Hàn Lâm học sĩ nhưng Thượng hoàng ngăn cản. Đặng Long
bất mãn nên hàng giặc. Khi giặc thua, Long bị bắt, vua sai đem chém đầu làm
răn. Nhìn chung, việc thưởng công phạt tội của triều đình nhà Trần sau chiến
tranh tương đối xác đáng, đặc biệt là vừa thể hiện được đức khoan dung vừa giữ
được tính nghiêm minh của pháp chế, giúp duy trì kỷ cương trật tự, củng cố khối
đoàn kết toàn dân.
Nhận xét
Đăng nhận xét