NHIỀU VIỆC LẤY CỚ LÀ “NHẠY CẢM” ĐỂ KHÔNG MINH BẠCH THÔNG TIN
Kiểm
soát quyền lực – Phần 2:
NHIỀU VIỆC LẤY CỚ LÀ “NHẠY
CẢM”
ĐỂ KHÔNG MINH BẠCH THÔNG
TIN
23/09/2016 03:15 GMT+7
VNN -"Ở Việt Nam còn rất nhiều việc chưa được
minh bạch, kể cả việc nhỏ và việc lớn, kể cả những chủ trương, quyết định và những
vụ việc tiêu cực, tham nhũng, sai lầm. Nhiều việc được cho là “nhạy cảm” để lấy
cớ đó không minh bạch thông tin.
------------------------------------------
LTS: Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu Phần 2 bài viết mới nhất của Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Phó trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, xung quanh một vấn đề mà ông luôn trăn trở - quyền lực và kiểm soát quyền lực.
--------------------------------------------
LTS: Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu Phần 2 bài viết mới nhất của Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Phó trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, xung quanh một vấn đề mà ông luôn trăn trở - quyền lực và kiểm soát quyền lực.
--------------------------------------------
Trong phần 1, tôi đã nói về lý
do phải kiểm soát quyền lực. Trong phần 2 này, tôi xin góp bàn về quyền lực cần
được kiểm soát như thế nào, bằng cách nào?
Trước tiên phải thấm nhuần sâu sắc
quan điểm quyền lực tối cao thuộc về nhân dân. Lời ấy không phải là hô khẩu hiệu,
mà phải được thấm sâu trong hệ thống chính trị và trong cộng đồng nhân dân. Mọi
người phải ý thức rõ ràng và đầy đủ về quan điểm ấy, thường xuyên thể hiện bằng
hành động thực tế.
Bảo đảm việc lập hiến là của
toàn dân (thông qua cử tri toàn quốc), nhân dân phải trực tiếp quyết định những
vấn đề cơ bản của Hiến pháp (chứ không phải là nhân dân góp ý để Quốc hội xem
xét). Phải trưng cầu dân ý đối với những vấn đề quan trọng của đất nước. Tiến tới
Chủ tịch nước phải do nhân dân trực tiếp bầu (chứ không phải Quốc hội).
Kiểm
soát bằng chính quyền lực Nhà nước
Tiếp theo, quyền lực phải được
kiểm soát bằng chính quyền lực Nhà nước, quy định trong Hiến pháp và các luật
liên quan về cơ cấu và chức năng, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước, trong đó có sự
phân quyền giữa ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp, các nhánh ấy độc lập
tương đối với nhau, giám sát chéo và điều chỉnh lẫn nhau, nhằm hạn chế sai lầm,
hoặc khi có sai lầm thì được phát hiện và điều chỉnh, khắc phục sớm nhất.
Nói chung, các nhà nước phong kiến
chưa giải quyết được việc kiểm soát quyền lực, mặc dù có lúc đã có một số quy định
tiến bộ, manh nha của kiểm soát quyền lực. Luật lệ của triều đình có những quy
định cấm các quan không được làm.
Một số triều đại đã từng có các
quan ngự sử ghi chép trung thực, khách quan mọi việc liên quan đến các quyết định
và ứng xử của nhà vua, của triều đình để lịch sử đánh giá, phán xét công, tội.
Vua cũng không được kiểm duyệt các ghi chép này. Có các gián quan để can gián
vua không làm việc sai; có trống để thần dân kêu oan; có “quan tòa” liêm chính
để phán xử đúng sai…
Tuy nhiên, về cơ bản vẫn chưa giải
quyết được vấn đề kiểm soát quyền lực. Nguyên nhân là do quyền lực tập trung
vào tay vua và hoàng tộc, vua bảo chết thì phải chết, ý vua là ý trời, ý vua là
pháp luật, còn nhân dân chỉ là đối tượng bị cai trị, không có quyền tự do, kể cả
quyền sống, trái ý vua thì tùy theo mức độ và sự nóng giận của vua mà bị trị tội,
kể cả tru di tam tộc.
Thời kỳ đầu của chế độ tư bản
cũng vậy, quyền lực tập trung vào tay những người giàu có và cũng không được kiểm
soát. Khi chế độ tư bản phát triển đến một mức độ nhất định, đáng kể, có những
bước tiến quan trọng về dân chủ xã hội, cộng với sự phát triển của các hệ tư tưởng,
nhất là lĩnh vực triết học, làm thay đổi nhận thức và tư duy chính trị, thì quyền
lực mới được kiểm soát đáng kể, và ngày nay vẫn đang phải tiếp tục hoàn thiện.
Phương pháp tiếp cận của nước ta
lâu nay đối với vấn đề này chưa phải đã tốt, quyền lực nhìn chung chưa được kiểm
soát chặt chẽ, thậm chí không ít trường hợp hầu như không có kiểm soát, và trên
thực tế, việc lạm dụng quyền lực đã rất nhiều. Chính nó đã tạo nên sự tha hóa đến
độ rất phức tạp.
Gần đây Tổng Bí thư nói nhiều lần
về việc kiểm soát quyền lực. Chúng ta có thể không dùng cụm từ “Tam quyền phân
lập”, không tiếp thu theo kiểu bê nguyên, rập khuôn máy móc mô hình này của các
nước phương Tây, vì mỗi quốc gia có đặc điểm văn hóa và ở giai đoạn phát triển
khác nhau. Nhưng riêng về vấn đề kiểm soát quyền lực trong đó thì rất nên
nghiên cứu một cách thật nghiêm túc.
Đồng thời với việc phân quyền một
cách khoa học giữa ba nhánh nói trên, còn có sự phân công và kiểm soát lẫn nhau
giữa các bộ phận trong cùng một nhánh, nhất là hành pháp và tư pháp.
Thật
sự tạo điều kiện để nhân dân hạnh phúc
Tiếp theo, kiểm soát quyền lực
thông qua việc thực thi rộng rãi quyền dân chủ; kể cả hình thức dân chủ trực tiếp,
dân chủ đại diện và dân chủ tham dự; thông qua chế độ tranh cử, đề bạt và miễn
nhiệm cán bộ; minh bạch thông tin và trách nhiệm giải trình của các tổ chức và
cá nhân được giao quyền lực; sự giám sát của công luận, của nhân dân; tự do tư
tưởng và tự do ngôn luận để thể hiện chính kiến của những con người tham gia
làm chủ đất nước.
Trong đó, cần phát huy tốt vai
trò của xã hội dân sự lành mạnh. Ở đây, cần hiểu cho đúng xã hội dân sự với tư
cách là các tổ chức và phong trào lành mạnh, hợp pháp, do nhân dân tự giác và tự
nguyện lập ra. Nó không phải là một hình thái kinh tế - xã hội nào mà là một bộ
phận hợp thành của xã hội hiện tại; không phải là tổ chức của nhà nước mà ngân
sách phải cấp kinh phí và cũng không phải là đơn vị kinh tế hoạt động vì mục
đích lợi nhuận.
Các tổ chức này ra đời và tồn tại
nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
xây dựng xã hội; nó là phương thức rất quan trọng để thực thi quyền dân chủ của
nhân dân. Nó đã từng tồn tại và đang tồn tại trong xã hội Việt Nam truyền thống
trước đây và trong xã hội Việt Nam hiện tại, tất nhiên là chưa hoàn chỉnh, chưa
hiện đại.
Nhân dân có quyền chất vấn, yêu
cầu cơ quan nhà nước phải giải trình; có quyền phản đối những việc làm mà nhân
dân cho là sai trái; có quyền yêu cầu cán bộ từ chức hoặc bị cách chức… Các cơ
quan nhà nước phải có trách nhiệm lắng nghe, điều tra xác minh, tiếp thu, trả lời,
giải trình, không được ngăn cản cấm đoán nhân dân thể hiện chính kiến một cách
ôn hòa.
Phải khuyến khích công luận lên
tiếng phê phán, phản đối những việc sai trái (kể cả của lãnh đạo) để tăng sức đề
kháng của cơ thể xã hội. Ở đâu và khi nào mà công luận bị hạn chế, ngăn cản thì
ở đó và lúc ấy cơ thể xã hội đang giảm sức đề kháng (đến một lúc bệnh nặng dần,
trở thành liệt kháng - đó chính là căn bệnh HIV chết người).
Trong một xã hội tiến bộ, việc
minh bạch thông tin có vị trí rất quan trọng, mọi người dân đều có quyền tiếp cận
thông tin, không ai được bưng bít thông tin, giống như “ánh sáng ban ngày” thay
cho “đêm tối”, để cái xấu, cái ác không còn nơi ẩn nấp, phải lộ rõ nguyên hình.
Lâu nay ở Việt Nam ta còn rất nhiều việc chưa được minh bạch, kể cả việc nhỏ và
việc lớn, kể cả những chủ trương, quyết định và những vụ việc tiêu cực, tham
nhũng, sai lầm.
Chính sự không minh bạch này đã
làm cho nhân dân nghi ngờ, mất lòng tin. Nghi ngờ dung túng, bao che, cùng “lợi
ích nhóm”. Nhiều việc được cho là “nhạy cảm” để lấy cớ đó mà không minh bạch
thông tin. Chính việc không minh bạch ấy đã làm hạn chế hiệu quả của cuộc chiến
chống tham nhũng và “lợi ích nhóm”, nếu như không muốn nói rằng nó cản trở các
công việc ấy.
Một nhà nước của dân, cớ sao
không báo cáo đầy đủ cho nhân dân biết? Nếu lãnh đạo không có ai dính dáng gì
tiêu cực trong đó thì tại sao lại sợ minh bạch? Muốn minh bạch thông tin thì
lãnh đạo Đảng và Nhà nước phải mở rộng hành lang hơn nữa cho tự do ngôn luận và
báo chí, còn bản thân báo chí cũng phải dũng cảm, bản lĩnh và nâng cao đạo đức
nghề nghiệp, nhà báo dám dấn thân cho lẽ phải và không để bị mua chuộc.
Cũng có ý kiến lo ngại rằng, khi
minh bạch thông tin về các vụ việc thì nhân dân sẽ mất lòng tin hơn nữa. Tôi
không nghĩ như vậy? Không minh bạch mới làm mất lòng tin. Ai cũng có quyền nghi
ngờ cả. Và người lãnh đạo tốt cũng mang tiếng lây. Không dám minh bạch vì sợ mất
lòng tin thì đó là thứ lòng tin bị đánh lừa, lòng tin nhầm lẫn.
Văn học nghệ thuật cũng cần phải
tích cực tham gia “trừ gian” để góp phần “tải đạo” theo các giá trị nhân bản và
phương pháp nghệ thuật phù hợp. Để thực thi dân chủ, việc đầu tiên là thật sự tạo
điều kiện cho nhân dân được mở miệng. Đó là cách nói mộc mạc dễ hiểu nhưng là
chân lý của Hồ Chí Minh.
Nhà nước rất cần nghiên cứu chỉnh
sửa các điều luật về tội “Tuyên truyền chống nhà nước” để cho nhân dân với tư
cách là “ông chủ” được tự do phê bình đối với bộ máy và cán bộ phục vụ nhân
dân, không để cho “đầy tớ” lợi dụng những quy định chưa chặt chẽ mà quy chụp, tống
giam “ông chủ”, làm thay đổi bản chất của nhà nước nhân dân. Tất nhiên đồng thời
phải chống loạn ngôn, chống vu cáo và xúc phạm các cá nhân và tổ chức, vi phạm
tự do của người khác, kể cả nhân dân và người lãnh đạo.
Lãnh đạo chủ chốt phải qua tranh
cử
------------------------------------------------------
Công tác cán bộ lâu nay, bên cạnh
những mặt làm được, nhìn chung trong hệ thống chính trị chưa tuyển chọn và sử dụng
được nhân tài. Lịch sử nước ta đã nhiều lần lặp đi lặp lại như vậy.
Trong chiến tranh, với sức mạnh
thiêng liêng của hồn nước, nhân tài tụ về dưới cờ khởi nghĩa để chiến đấu vì mẹ
hiền Tổ quốc. Đến khi hòa bình thì nhân tài, trung thần thưa vắng dần, còn nịnh
thần thì chui vào ngày càng nhiều trong triều chính, dẫn đến tha hóa quyền lực
và sụp đổ.
Cách làm công tác cán bộ chủ yếu
là sắp đặt theo ý chí và cách tư duy còn nhiều chủ quan của người lãnh đạo.
Không ít trường hợp sắp xếp cán bộ theo quan hệ, hậu duệ, “lợi ích nhóm”; bị đồng
tiền chi phối, thậm chí đồng tiền đã quyết định trong nhiều trường hợp; đề bạt
con cháu, đồ đệ và những người ăn cánh.
Từ xưa tới nay, chế độ và triều
đại nào cũng vậy, nạn mua bán chức quan là một trong các biểu hiện tha hóa quyền
lực nguy hại nhất. Ở Việt Nam, nhiều năm rồi, cụm từ “buôn quan”, “buôn vua” đã
xuất hiện, tồn tại và lan truyền. Ngôn ngữ không ngẫu nhiên mà có. Nó ra đời để
phản ánh một thực trạng trong đời sống chính trị - xã hội.
Đến nay nạn chạy chức, chạy quyền
đã trở nên khá phổ biến, có những trường hợp cứ như là đương nhiên, rất đáng lo
ngại, kể cả ở những lĩnh vực hệ trọng. Công tác cán bộ chưa có được một cơ chế
khoa học để tuyển chọn và sử dụng được nhân tài, tư tưởng phong kiến còn ảnh hưởng
nặng nề và những năm gần đây lại cộng với mặt trái của cơ chế thị trường và sự
tha hóa quyền lực.
Cần đổi mới mạnh mẽ và căn bản
công tác cán bộ theo hướng cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải qua tranh cử trong môi
trường thật sự tôn trọng ứng cử tự do và đề cử của các tổ chức chính trị - xã hội;
chọn cán bộ chuyên môn phải qua thi tuyển, thực chất và nghiêm túc, khách quan,
vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán
bộ.
Đó cũng là cách để nhân dân và
đông đảo cán bộ tham gia giám sát quyền lực trong việc giao quyền lực cho cán bộ.
Nâng cao chất lượng của đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp lựa chọn
những người có năng lực và bản lĩnh làm đại biểu chân chính và xứng đáng của
nhân dân, dám nói tiếng nói trung trực đấu tranh bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Khi các đại biểu Quốc hội và
HĐND các cấp đã được nhân dân bầu chọn thì phải toàn tâm toàn ý, một lòng một dạ
phục vụ nhân dân, lắng nghe nhân dân, nói tiếng nói của nhân dân, biểu quyết vì
nhân dân. Tiến tới công khai cho nhân dân biết các đại biểu ấy biểu quyết thế
nào đối với những công việc mà nhân dân bức xúc quan tâm, để giám sát sự trung
thành với dân.
Tổ chức Đảng phải làm nòng cốt
kiểm soát quyền lực
-----------------------------------------------------------------------------
Nếu các đại biểu ấy là đảng viên
thì càng phải gương mẫu thức hiện ý dân, coi lòng dân là sơ sở quan trọng nhất
để hành động - đó là nguyên tắc cao nhất. Tổ chức Đảng đã giao cho đảng viên
nhiệm vụ làm đại biểu chân chính của nhân dân, đảng viên cứ thế mà hành động; tổ
chức Đảng không cầm tay chỉ việc, không yêu cầu đảng viên phải biểu quyết và
phát ngôn cụ thể theo ý kiến cấp ủy.
Trung thành với nguyện vọng của
dân, nói tiếng nói của dân - đó chính là nhân cách và ý thức đảng viên chân
chính. Đảng vì nhân dân mà hành động chứ không vì cái gì khác, không để cho
“nhóm lợi ích” chi phối và thao túng.
Sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng
lâu nay không ít trường hợp đã sử dụng biện pháp hành chính và quyền lực, thậm
chí đã trở thành cơ quan quyền lực cao nhất trên thực chất, và cũng chưa có cơ
chế kiểm soát quyền lực.
Với cách này, nếu kéo dài thì tổ
chức Đảng sẽ bị quyền lực làm tha hóa, vừa hỏng công việc lãnh đạo đất nước, vừa
hỏng bản thân tổ chức Đảng. Cần đổi mới một cách căn bản nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng theo hướng Đảng không làm thay, không chồng chéo với công việc
Nhà nước, nhất là việc sử dụng quyền lực, mà chuyển mạnh sang lãnh đạo chủ yếu
bằng các giá trị văn hóa, từ chủ trương hợp lòng dân đến noi gương và thuyết phục,
không áp đặt một chiều bằng biện pháp tổ chức, hành chính và quyền lực.
Đảng phải đại diện chân chính và
xứng đáng nhất cho ngọn cờ dân chủ; phát hiện và chọn lựa cho được các hiền tài
để giới thiệu với nhân dân. Đó cũng là cách làm truyền thống mà trước đây,
trong điều kiện chưa cầm quyền, Đảng đã từng sử dụng để trở thành một Đảng lãnh
đạo của nhân dân.
Bản thân trong tổ chức của Đảng
cũng cần phải có cơ quan do đại hội cử ra để giám sát cán bộ lãnh đạo về nhân
cách và việc sử dụng quyền lực. Tổ chức Đảng không đứng lệch về phía quyền lực
và sử dụng quyền lực nhà nước, mà nghiêng về phía nhân dân, tập trung lãnh đạo
và làm nòng cốt trong kiểm soát quyền lực, thực hành dân chủ rộng rãi và phát
huy vai trò các tổ chức của xã hội dân sự lành mạnh để tham gia xây dựng, bảo đảm
cho nhà nước thật sự là nhà nước của nhân dân - là mục tiêu xây dựng nhà nước
mà Đảng nói lâu nay.
Vũ Ngọc Hoàng
Nhận xét
Đăng nhận xét