Kỳ 137-CHIẾN LƯỢC VÀ CHIẾN THUẬT CỦA LÊ LỢI xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxx
Kỳ 137
CHIẾN LƯỢC VÀ CHIẾN THUẬT
CHỐNG QUÂN MINH CỦA LÊ LỢI
Tìm hiểu Thế chiến thứ Hai cùng chiến tranh Triều Tiên, người nghiên cứu
lịch sử khâm phục tướng Douglas MacArthur với chiến lược “tấn công nhảy cò”
(Island hopping offences) tại các quần đảo Thái Bình Dương và cuộc đổ bộ tại hải
cảng Inchon (Nhân Xuyên) Triều Tiên.
Năm 1942, sau khi nhận lệnh rời bán đảo Batan tại Philippines để đi đến
Australia, tướng MacArthur hứa rằng sẽ trở lại giải phóng quần đảo này khỏi tay
Nhật. Với chức vụ Tư lệnh quân đội Đồng minh vùng tây nam Thái Bình Dương, ông
mở mặt trận phía bắc Australia, để rồi cuối cùng đổ
bộ lên Philippines. Cuộc trường chinh có chiều dài hàng mấy ngàn cây số,
kinh qua rất nhiều đảo nhỏ thuộc quần đảo New Guinea và Melanesia do quân Nhật
chiếm đóng.
Nếu lần lượt tấn công để làm chủ tất cả các hải đảo này, quân đội Đồng
Minh phải sử dụng rất nhiều quân, chấp nhận nhiều tổn thất và mất nhiều thời
gian. Để tránh những khó khăn nêu trên, tướng MacArthur sử dụng lối hành quân “nhảy
cò”. Ông chủ trương chỉ tấn công chiếm đóng các đảo quan trọng, rồi từ các đảo
này dùng hải quân và không quân khống chế sự họat động của địch tại các đảo kế
cận mà ông đã bỏ qua không cần chiếm đóng. Quyết định này rất hiệu nghiệm, vì
chỉ dùng một lực lượng nhỏ cầm chân được lực lượng lớn của địch; dành thành phần
sinh lực tiến nhanh lên phía bắc để giải phóng Philippines vào năm 1944.
Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên vào năm 1950, ngôi sao của tướng
MacArthur lại càng sáng chói qua cuộc điều binh đổ bộ vào Inchon. Lúc bấy giờ
quân Bắc Triều Tiên đột ngột tấn công Nam Triều Tiên cho đến tận thành phố
Pusan (Phú Sơn) phía nam, sắp sửa đánh bật quân đội Liên hiệp quốc ra khỏi bán
đảo này. Sau khi Pusan được tăng cường và giữ vững, nếu như thường tình, từ đó
dùng bàn đạp tấn công lên phía bắc, thì phải đổ rất nhiều xương máu và mất rất
nhiều ngày tháng. Tướng MacArthur chọn giải pháp khác. Ông cho đổ bộ tại
Inchon, gần thủ đô Seoul (Hán Thành), nơi địch quân ít ngờ nhất vì nước thủy
triều nơi này lên xuống rất nhanh, rất hạn chế thời gian đổ bộ. Cuộc đổ bộ đạt
được yếu tố bất ngờ, thành công nhiều mà ít tổn thất. Lực lượng tấn công “chẹn
họng ” cắt ngang nước Triều Tiên và tái chiếm thủ đô Seoul. Quân Bắc Triều Tiên
với số lượng rất lớn kẹt giữa Seoul và Pusan, hầu như không đánh mà tan.
Tại nước ta, trong quá trình giữ nước và mở mang bờ cõi, các danh tướng
có tầm nhìn chiến lược cỡ Đại tướng MacArthur, không phải là không có. Chiến lược
“nhảy cóc” tại Thái Bình Dương và “chẹn họng” gần thủ đô Seoul mà vị tướng này
đã dùng; thì riêng tại nước ta trước đây gần 600 năm, vua Lê Lợi đã từng sử dụng
chiến lược tương tự, tạm gọi là “nhảy cóc và chẹn đường tiếp viện”.
I.
CHIẾN LƯỢC
1.
NHẢY CÓC
Sau khi bao vây thành Nghệ An, vào cuối năm Ất Tỵ [1425] vua Lê Lợi nhận
thấy quân tinh nhuệ của giặc đều đóng tại nơi này, lực lượng địch tại miền Bắc
nhất định suy yếu. Ngài quyết định để một phần nghĩa quân cầm chân giặc tại Nghệ
An, mang đại quân ra bắc tấn công vùng biên giới và uy hiếp thành Đông Quan [Hà
Nội]. Nếu như một người tầm thường, lần lượt cho quét sạch quân địch trên đường
tiến quân, thì mất không biết bao nhiêu ngày tháng; hơn nữa số quân địch bị tổn
thất, sẽ có quân tiếp viện vượt biên giới sang tăng cường, thì chiến tranh còn
lâu mới chấm dứt được. Bởi vậy trên đường tiến quân ra Bắc, nhà vua quyết định
chỉ uy hiếp giặc co cụm lại trong thành, dùng lực lượng địa phương khống chế; rồi
mang đại quân ra chẹn đường tiếp viện tại vùng gần biên giới.
Quyết định này rất hữu hiệu, phần lớn các đồn nhỏ của giặc không được
tiếp tế khiến tinh thần quân lính suy sụp, lần lượt ra hàng. Riêng thành lớn
như Nghệ An do Đô đốc Thái Phúc chỉ huy, cuối cùng cũng phải bỏ. Trong một văn
bản của triều đình nhà Minh kết tội viên tướng này, tiết lộ rằng y rút quân từ
thành Nghệ An đến sông Phú Lương [Hồng Hà], rồi bị đánh phải xin hàng, cuối
cùng y hợp tác với nghĩa quân, đi chiêu hàng quân nhà Minh tại các thành.
Ngày 20 tháng 5 năm Tuyên Đức thứ 3 [2/7/1428]
… Chu An từ Chỉ huy Thiêm sự vệ Chấn Vũ được điều đi đánh giặc họ Lê, cải
nhiệm tiền vệ Giao Chỉ, trấn thủ Nghệ An. Gặp lúc giặc Lê Lợi lộng hành, Đô đốc
Thái Phúc triệu các tướng đến bàn:
“Nay tại đây thiếu lương thực, khó khăn, nên không thể giữ được, hãy
thu thập về Đông Quan.”
Tất cả đều đồng ý. Riêng Thiên hộ Bảo Tuyên lĩnh binh hơn 100 tên chạy
đến trại giặc. An đốc suất kẻ dưới quyền, cùng quân dân vệ Diễn Châu trở về
thành Đông Quan. Đi đến sông Phú Lương gặp giặc; vì binh ít, yếu nên bị giặc bắt.
Phúc bị giặc bức bách, lệnh đến các thành dụ các chỉ huy thành ra
hàng… [1]
Ngay tại thành Thanh Hóa, các viên chỉ huy gan lỳ như La Thông, Đả
Trung cũng đành thụ động, lo phòng thủ trong thành mà thôi:
Ngày 5 tháng 12 năm Tuyên Đức thứ nhất [2/1/1427]
Ngày hôm nay giặc họ Lê đánh châu Thanh Hóa không hạ được, bèn rút đi.
Trước đó, từ khi thất bại tại Ninh Kiều Thành Sơn hầu Vương Thông không
còn vững lòng như trước, tự tiện cho Lê Lợi cai quản từ Thanh Hóa trở vào nam,
truyền hịch cho quan quân tại nơi này rút về thành Đông Quan. Riêng châu Thanh
Hóa không chịu nghe lệnh. Trước kia Lê Lợi đánh Thanh Hóa, Tri châu La Thông,
Chỉ huy Đả Trung suất quân dân kiên thủ, có lúc mang quân đánh núi đất, sát
thương giặc nhiều, thế giặc bớt căng thẳng. Lúc này hịch tới, người trong thành
kinh sợ. Thông nói với Trung rằng, bọn chúng ta chống cự, mấy lần đánh bại giặc,
ra khỏi thành thì không sống được; nay tại đây thành cao, hào sâu, lương nhiều,
dân đông; so với việc chịu trói, chi bằng tận trung mà chết, mà chưa chắc đã chết
đâu! Bọn [Vương] Thông bán thành cho giặc, lệnh này không thể theo được.” Rồi
cùng với Trung tưởng lệ quân sĩ, giữ thành vững thêm; giặc đánh không hạ được,
bèn bỏ đi. Khi Vương Thông bỏ Giao Chỉ, bọn [La] Thông cũng trở về kinh đô.
2.
CHẶN ĐƯỜNG TIẾP VIỆN
CHẶN ĐƯỜNG TIẾP VIỆN
Con đường tiếp viện chính của quân Minh lúc bấy giờ về phía Vân Nam
theo hướng thượng lưu sông Hồng, sông Lô; về phía Quảng Đông, Quảng Tây theo hướng
Lạng Sơn, Bắc Giang. Toàn thư ghi lại những nỗ lực của nghĩa quân
ngăn chặn đường tiếp viện tại các vùng này như sau:
“Mùa thu tháng 8, vua cho là quân tinh nhuệ của giặc đều ở Nghệ An cả,
các xứ Đông Đô của chúng nhất định suy yếu, bèn tăng thêm binh tượng, sai bọn
Khu mật đại sứ Phạm Văn Xảo, Thái úy Lê Triện, Thái giám Lê Khả, Á hầu Lê Như
Huân, Lê Bí đem hơn 3.000 quân, 1 thớt voi đi tuần tại các xứ Thiên Quan[Ninh
Bình], Quảng Oai, Quốc Oai [Hà Tây], Gia Hưng [Sơn La], Quy Hóa [Lào Cai], Đà
Giang, Tam Đái [Vĩnh Phúc], Tuyên Quang để cắt đứt đường viện binh của quân giặc
từ Vân Nam sang. Bọn Thiếu úy Lê Bí, Thái giám Lê Khuyển đem 2.000 quân và 1 thớt
voi đánh các xứ Khoái Châu, Bắc Giang, Lạng Giang để chặn viện binh từ Lưỡng Quảng
tới.” [2]
Riêng Minh Thực lục ghi lại những cuộc giao tranh lớn tại
vùng này như sau:
Văn bản ngày 12/11/1426 về cuộc giao tranh tại vùng Quảng oai [Hà Tây],
Đô chỉ huy Tố Lượng bị bắt.
14/1/1427 nghĩa quân tấn công Ải Lưu Lạng Sơn, giết Bách hộ Hoàng Bưu.
7/4/1427 nghĩa quân vây Khâu Ôn, Lạng Sơn.
28/4/1427 nghĩa quân đánh tan đại đồn Xương Giang.
29/9/1427 nghĩa quân đánh tan đạo quân tiếp viện của Liễu Thăng tại Chi
Lăng.
Với chiến thắng Xương Giang, rồi tiếp đến Chi Lăng đã dập tắt mọi nỗ lực
chống cự của quân Minh. Cuối cùng thì Vương Thông thế cùng lực kiệt, không kịp
đợi lệnh vua nhà Minh, tự tiện hội thề với vua Lê Lợi để xin rút quân về; chiến
lược “nhảy cóc, và chặn đường tiếp viện” đã gặt hái thành công mỹ mãn.
II.
CHIẾN THUẬT
Nếu chiến lược là kế sách lớn chỉ đạo toàn cuộc chiến, thì chiến thuật
giúp đạt những mục tiêu, từng bước hỗ trợ cho chiến lược; bởi vậy thiên tài
quân sự cần giỏi cả hai: chiến lược lẫn chiến thuật. Sau đây xin nêu lên những
chiến thuật căn bản, được thi triển trong cuộc kháng chiến chống quân Minh:
1.
Xua cọp ra khỏi
núi
Hãy dùng bản đồ tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh. Lưu ý đến ngã ba sông Lam và
sông La, cách Vinh khoảng trên 10 km; có một núi thấp mà người địa phương gọi
là Rú Thành; đó là thành Nghệ An xưa, thời nhà Minh đóng quân tại đó. Thành này
vây bọc bởi hai sông Lam, La; thành cao, hào sâu, ở vị thế cao khống chế các
vùng xung quanh; không dễ gì tấn công được. Quân Minh đóng trong thành này, có
lợi thế như cọp sống trong rừng.
Ngược theo dòng sông Lam khoảng hơn một trăm cây số là huyện Tương
Dương, thuộc tỉnh Nghệ An; nơi này thời thuộc Minh gọi là châu Trà Long [Lân],
do viên Thổ quan trung thành với nhà Minh là Cầm Bành đóng quân. Áp dụng chiến
thuật “xua cọp ra khỏi núi“, nghĩa quân bao vây và tấn công Trà Long trong thời
gian dài, quân Minh như cọp trong thành Nghệ An, buộc phải đi tiếp cứu, hoặc
tìm cách chiếm lại sau khi thành mất. Nhìn trên bản đồ, con đường tiếp cứu của
quân Minh ắt phải đi dọc theo sông Lam; hoặc muốn tránh né thì đi ngược dòng
sông Phố, theo ngã Hương Sơn, Hà Tĩnh; rồi băng qua các huyện Thanh Chương, đến
huyện Tương Dương. Lịch sử ghi nhận rằng quân Minh đã đi qua những chiến trường
do vua Lê Lợi chọn lựa, chúng như con cọp ra khỏi rừng, nên bị thảm bại nhiều lần
trên các tuyến đường này.
Sử nước ta, Toàn thư, lần lượt chép những chiến thắng như sau:
Tháng 9 năm Giáp Thìn [1424], nghĩa quân phục kích gần thành Trà Long,
chém Đô ty Trần Trung và hơn 2.000 tên giặc. Ngày hôm sau đánh quân của Sư Hựu,
chém hơn 1.000 tên.
Tháng 12 cùng năm, nghĩa quân chặn giặc tại Đỗ Gia [huyện Hương Sơn].
Tháng 12 cùng năm, nghĩa quân phục kích tại Khả Lưu [huyện Anh Sơn];
quân Minh bị chém hoặc chết trôi hàng vạn tên. Hôm sau lại tiếp tục phục kích tại
Bồ Ải [huyện Anh Sơn], giết hàng ngàn giặc, rồi tiếp tục xua đuổi đến tận thành
Nghê An.
Để tránh thiên kiến, chúng tôi xin tham khảo thêm Minh Thực lục.
Trong một chiếu dụ trách phạt bọn Trần Trí, Phương Chính, Sơn Thọ về việc thất
bại tại Trà Long, vua Tuyên Đức nhà Minh đã có lời lẽ nghiêm khắc như sau:
Ngày 5 tháng 3 năm Tuyên Đức thứ nhất [12/4/1426]
Quan Tổng binh Giao Chỉ Vinh Xương bá Trần Trí, Đô đốc Phương Chính
đánh dẹp bọn giặc Lê Lợi; tiến quân đến châu Trà Long, bị thua. Nguyên nhân
Chính dõng, Trí khiếp nhược, vốn không hòa thuận với nhau; Nội quan Sơn Thọ lại
chủ trương chiêu dụ nên đóng binh một chỗ không cứu, đến nỗi bị bại. Thượng thư
Trần Hiệp tâu cho biết; Thiên tử nghiêm thiết trách Trí và Chính rằng:
“Giặc Lê Lợi vốn chỉ là tên nhãi con, nếu sớm tận tâm đánh bắt, thì dễ
như nhặt một cọng lá; rồi các ngươi ngồi yên không lo tính, dưỡng giặc nên trở
thành mối hoạn. Nay nghe tin mang binh tới ải Khả Lưu và châu Trà Lung [Long],
cả hai nơi đều nhục vì tổn thất. Do bọn ngươi ngày thường dựa vào ý riêng tranh
hơn thua, không ai chịu nhường; lúc đụng việc thì kẻ dõng tiến quân một mình
nhưng vô mưu; người khiếp nhược thì sợ co lại không cứu; như vậy thì làm sao
thành công được? Luận tội há có thể tha được ư! Nay tạm khoan dung, các ngươi
ngày đêm hãy đồng tâm hiệp lực, luyện tập sĩ tốt tinh nhuệ, lo diệt giặc này để
chuộc lỗi trước.”… [3]
Có thể bạn đọc nêu ý kiến rằng: nếu biết con đường tiến quân tới Trà
Long gay go như vậy, thì đừng tiến! Xin thưa rằng đó là lệnh vua nhà Minh; bậc
tướng giỏi như vua Lê Lợi đã tiên liệu sẵn ý định của đối phương, nên chọn sẵn
chiến trường dành cho họ.
Ngày 16 tháng 7 nhuần năm Hồng Hy thứ nhất [29/8/1425]
Tuần án, Giám sát, Ngự sử Giao Chỉ tâu đầu đảng giặc Lê Lợi tại phủ
Thanh Hóa tụ dân làm loạn vây châu Trà Lung [4] . Viên Thổ quan coi
châu Tri phủ Cầm Bành chống giữ trong vòng 7 tháng, lương gần hết, quân gặp
nguy khốn, xin mang binh cứu viện.
Thiên tử xem tờ tâu bùi ngùi sắc dụ Vinh xương bá Trần Trí cùng ba
ty [5] tại Giao Chỉ rằng:
“Triều đình mệnh các ngươi trấn thủ Giao Chỉ là để yên ổn một phương;
nay được biết bọn đầu đảng Lê Lợi cướp phá châu huyện, ngăn cắt đường sá. Các
ngươi mới đây tâu rằng đã chiêu dụ Lê Lợi xin đợi mùa thu mát đến Thanh Hóa nhậm
chức. Nay đã mùa thu rồi, thực sự Lợi đã đến nhậm chức chưa? Trẫm ước tính tên
giặc này ngụy trá, không có lòng qui thuận; chỉ dùng lời lẽ để hoãn binh để bọn
chúng được thung dung tụ tập, tương lai tất gây hậu hoạn, các ngươi không suy
nghĩ đến hay sao? Về việc Thổ quan Tri phủ Cầm Bành tại châu Trà Lung bị Lợi
đánh vây 7 tháng nay rồi, lương thảo sắp hết, quân chết đến một phần ba, Bành vẫn
kiên thủ cự địch, Giao Chỉ có được người như vậy cũng không dễ kiếm! Các ngươi
từng chứng kiến lòng trung thành của con người này, sao không điều binh cứu viện?
Khi sắc dụ đến nơi, như thấy Lê Lợi không có bụng quy thuận hãy tìm
cánh đánh bắt. Gấp phát binh tiếp viện Cầm Bành, vỗ về hậu hỹ, để bồi dưỡng
lòng kiên cường trung thuận. Các ngươi đều là đại thần của triều đình, cần đồng
tâm hiệp lực làm tròn ủy nhiệm, đừng lo việc ban thưởng phong tước không được
công bằng!” [6]
Những chiến thắng trên con đường huyết mạch từ thành Nghệ An đến châu
Trà Long ngoài giá trị về phương diện quân sự, riêng về mặt nhân tâm cũng có
tác động rất mạnh. Người dân vốn ghét quân Minh, nhưng vì sự bạo tàn của chúng,
trước đó còn e dè. Nay thấy trước mắt thành quả chiến thắng, người người đều phấn
khởi ủng hộ. Toàn thư chép việc dân huyện Thổ Du [huyện Thanh Chương,
Nam Đàn ngày nay] mang trâu rượu đến khao quân, Thổ quan Cầm Quý mang quân đến
giúp như sau:
“Mùa xuân tháng giêng, vua đem quân đến hương Đa Lôi, huyện Thổ Du, trấn
Nghệ An. Già trẻ tranh nhau đem trâu rượu đến đón và khao quân. Mọi người đều
nói:
“Không ngờ ngày nay lại được trông thấy uy nghi của nước cũ.”
Tri phủ châu Ngọc Ma là Cầm Quý đem hơn 8.000 quân và hơn 10 con voi đến
giúp.” [7]
Có thể nói quân của Bình định vương Lê Lợi như cậu bé Phù Đổng, thực sự
vươn vai lớn mạnh, ngay tại vùng đất Nghệ An.
2.
Dùng
quân mai phục
“Bình Ngô đại cáo” xác nhận nghĩa quân thường dùng quân mai phục:
“Lấy yếu chống mạnh, thường đánh bất ngờ,
Lấy ít địch nhiều, hay dùng mai phục.”
Lấy ít địch nhiều, hay dùng mai phục.”
Hầu như tất cả những trận đánh nổi tiếng của nghĩa quân đều là những trận
mai phục. Sau đây xin trích sử nhà Minh chép về trận phục kích nổi danh tại ải
Chi Lăng, trận này đưa đến việc kết thúc cuộc chiến:
Ngày 9 tháng 9 năm Tuyên Đức thứ 2 [29/9/ 1427]
Ngày hôm nay quân của quan Tổng binh An Viễn hầu Liễu Thăng đến Ải Lưu
quan; Lê Lợi cùng các đầu mục lớn nhỏ sai người đến cửa quân dâng thư xin bãi
binh để yên dân và lập con cháu họ Trần làm chủ đất này. Bọn Thăng nhận thư,
không mở ra xem, sai người tâu về kinh. Lúc này những chỗ quan quân đi qua, giặc
làm trại để thủ, quan quân liên tiếp công phá, đến ngay ải Trấn Di như vào chỗ
không người. Ý Thăng xem thường; Thăng là người võ dõng nhưng ít mưu. Bấy giờ Tả
Phó Tổng binh Bảo Định bá Lương Minh, Tham tán quân sự Thượng thư Lý Khánh đều
bệnh; Lang trung bộ Lễ Sử An, Chủ sự Trần Dung nói với Khánh rằng:
“Xem lời lẽ, sắc mặt của chủ tướng, có vẻ kiêu; kiêu là điều tối kỵ của
nhà binh. Vả lại bọn giặc ngụy trá, hoặc có thể làm ra vẻ yếu để dụ chúng ta;
huống tỷ thư dụ rõ ràng là phải phòng ngừa giặc đặt phục binh. Đây là phút an
nguy, Ngài nên nói gấp.”
Khánh rán ngồi dậy gặp Thăng, hết sức can gián. Thăng ừ ào, nhưng vẫn
không nghiêm chỉnh phòng bị. Đến Đảo Mã pha, cùng với hơn trăm quân kỵ qua cầu;
nửa chừng cầu bị sập, quân đằng sau không tiến được. Thăng rơi xuống vũng lầy,
phục binh giặc nổi lên bốn phía, Thăng bị đâm chết bằng giáo; đám quân theo
Thăng cũng bị giết sạch. Lúc này Hữu Tham tướng Đô đốc Thôi Tụ thu thập quan
quân, chỉnh đốn đội ngũ. Cũng ngày hôm đó Lương Minh bệnh chết, lại ngày hôm
sau Lý Khánh cũng chết. Rồi đến ngày hôm sau nữa, Thôi Tụ điều quan quân tiến;
đến Xương Giang gặp giặc, quan quân ít giặc thì đông, cố gắng đánh, nhưng giặc
xua voi vào trợ chiến, nên quân loạn, Thôi Tụ bị bắt sống. Giặc hô lớn:
“Kẻ hàng không bị giết.”
Quan quân hoặc tử trận, hoặc chạy về biên giới, không một ai
hàng… [8]
3.
Đánh
thành
Đánh thành là điều bất đắc dĩ, vì phải dùng lực lượng lớn hơn đối
phương gấp bội và chấp nhận tổn thất cao. Bởi vậy mấy ngàn năm về trước, Tôn Tử,
chiến lược gia số một của Trung Quốc đã cảnh cáo như sau:
Công thành chi pháp vi bất đắc dĩ.
(Tôn Tử binh pháp, Mưu công đệ tam)
Gọi là bất đắc dĩ hàm ý chấp nhận có những trường hợp ngoại lệ. Đó là
trường hợp đánh thành Xương Giang; thành này nằm trên con đường huyết mạch từ cửa
ải Pha Lũy đến Đông Đô, là đường ra vào tiếp viện của quân Minh. Khác với việc
đánh các đồn nhỏ, các tài liệu về chiến thuật thường chủ trương dùng pháo binh
tấn công trước, kế đó bộ binh xung phong tiêu diệt sau (tiền pháo tập trung, hậu
xung tứ diện); nhưng trường hợp đây là một đại đồn, nằm trên một vị thế chiến
lược, nên cuộc tấn công cam go và phức tạp hơn nhiều.
Quyết đánh cho bằng được, Minh Thực lục đã ghi lại những nỗ lực
sau đây của nghĩa quân:
Xây núi đất (thổ sơn), tức công sự chiến đấu bằng đất xung quanh thành.
Thử hình dung cảnh lợi dụng màn đêm, nghĩa quân xây những núi đất xung quanh
thành, mỗi núi phải sử dụng đến hàng trăm tấn đất. Công trình nặng nề, gian
nguy; gương can đảm biết là nhường nào!
Nghĩa quân đào địa đạo vào thành, khiến quân phòng thủ trong thành phải
đào hào để chặn địa đạo.
Dùng thang mây tức vân thê. Đây là loại thang đặc biệt, thường đặt trên
bệ có sáu bánh xe, nên thang này có thể di chuyển được. Không cần điểm tựa,
thang được kéo lên, quân leo trên thang có thể quan sát và bắn vào thành.
Mặc dù Minh Thực lục đã cố tình nói bớt quân số trong thành,
nhưng không giấu được gương anh dũng, lòng cương quyết, và sáng kiến của nghĩa
quân trong chiến thuật đánh thành:
Ngày 2 tháng 4 năm Tuyên đức thứ 2 [28/4/1427]
Ngày hôm nay giặc Giao Chỉ Lê Lợi công hãm thành Xương Giang. Lợi cho rằng
Xương Giang là nơi quan trọng, [trên đường] đại quân ra vô; bèn dùng hơn 8 vạn
quân đánh. Quan giữ thành Đô Chỉ huy Lý Nhiệm,Chỉ huy Cố Phúc ra lệnh già, trẻ,
phụ nữ đều lên mặt thành, dương cờ hò hét, ngày đêm chống cự; Bọn Nhiệm bất ngờ
mang quân tinh nhuệ ra công kích, đốt phá dụng cụ đánh thành. Bốn phía giặc đều
xây núi đất, dùng phi minh bắn vào thành; Nhiệm sai quân cảm tử ban đêm mở cửa
thành ra đánh, giết giặc giữ núi đất. Mưu tập kích doanh trại, giặc đào địa đạo
vào thành, Nhiệm sai đào hào ngang chặn địa đạo, rồi ném đá xuống, khiến giặc
chết nhiều.
Giặc nghe tin đại binh của Chinh di Tướng quân sắp tới, sợ sẽ dùng
thành này làm chỗ dựa, bèn tăng cường thêm quân và voi tấn công. Tên đá bắn vào
như mưa. Nhiệm dùng trăm cách để chống cự, trải qua 9 tháng trời, giao tranh
hơn 30 trận; khởi đầu trong thành có hơn 2.000 tướng sĩ, lúc này chết và tật bệnh
đến một nửa, nhưng giặc vẫn quyết vây đánh, dùng thang mây leo lên thành, rồi
đoạt cửa, Nhiệm điều lính quyết tử ba lần đánh lui, nhưng giặc lại xua voi và
lính vào. Bọn Nhiệm kiệt sức, đánh không xuể, Nhiệm và Phúc đều tự tử; quan
trong thành là Phùng Trí khóc ròng, hướng về phía bắc bái tạ, rồi cùng Chỉ huy
Lưu Thuận, Tri phủ Lưu Tử Phụ thắt cổ chết. Trong thành các quan quân, cùng
trai gái chết rất đông; giặc phóng hỏa đốt, cướp phá đến sạch không. [9]
4.
Tâm thuật
Đọc Chinh phụ ngâm, bí quyết về thuật dùng người, thấy được trong
hai câu thơ:
Trượng phu thiên lý chí mã cách,
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao.
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao.
(Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao)
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao)
Tâm lý con người chuyển biến không ngừng; lúc nghĩ đến bản thân, vợ
con, thường xem sinh mệnh to lớn như núi Thái Sơn; ngược lại lúc hăng hái liều
chết thì coi tính mệnh nhẹ tựa lông hồng. Nhắm nêu bằng chứng về thuật trị tâm,
xin đơn cử một con người thực được các “tay tổ” về tâm thuật lần lượt uốn nắn;
đó là Đô đốc Thái Phúc, cấp bực tương đương với Trung tướng, Thượng tướng ngày
nay.
Một trong các “tay tổ” về môn này, phải kể đến vua Minh Thái Tông. Trước
khi tấn công thành Đa Bang, lệnh vua được ban truyền trong quân “…đại trượng
phu báo đền quốc gia, công danh chính tại nơi này…”. Kích thích bởi lệnh này,
Thái Phúc hăng hái dẫn đầu, trèo lên trước, chém giết loạn xạ:
Ngày 11 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [19/1/1407]
…Sau khi đã hoàn tất dụng cụ đánh thành, bèn hạ lệnh trong quân rằng:
“Giặc chỉ dựa vào thành này mà thôi; đại trượng phu báo đền quốc gia,
công danh chính tại nơi này, ai leo lên trước không kể cấp bực cao thấp, lập tức
được thăng thưởng.”
Do đó quân sĩ đều hăng hái liều mình. Ngày này bọn Trương Phụ hội ý
phân công tại bãi cát, Phụ đánh thành phía tây nam, Thạnh đánh thành phía đông
nam. Sau khi phân công xong, sai một số tướng sĩ nhắm cách mục tiêu định đánh
khoảng 1 dặm, chuẩn bị dụng cụ để công thành gấp. Tối hôm đó dập tắt lửa, hẹn
quân sĩ đến giờ trèo thành, mới nổi lửa thổi tù và làm hiệu lệnh. Vào canh tư,
Phụ sai Đô đốc Thiêm sự Hoàng Trung âm thầm mang công cụ vượt hào đến tây nam
thành, dùng thang mây dựa vào thành. Đô Chỉ huy Thái Phúc leo lên trước, dùng
dao chém loạn xạ, bọn giặc kinh hoảng la báo động, trên thành lửa sáng rực, tiếng
kèn, tù và huyên náo. Dưới thành quân sĩ hăng hái liều mình leo tiếp, bọn giặc
kinh hoàng không kịp trở tay, gạch đá tên đạn không tung ra được, vội nhảy xuống
thành bỏ chạy… [10]
Sau khi cuộc chiến hoàn tất, Phúc trở thành anh hùng quân đội nhà Minh,
được thăng một lượt 3 bực, từ Đô chỉ huy lên đến hàng Đô đốc:
Ngày 7 tháng 7 năm Vĩnh Lạc thứ 6 [29/7/1408]
…Những kẻ đầu tiên trèo lên thành Đa Bang gồm 19 người không kể cấp bực
đều được thăng thưởng: Đô Chỉ huy Thái Phúc thăng Đô đốc Đồng Tri, thưởng bạch
kim 150 lượng, tiền giấy 400 nén, lụa nõn trong ngoài 20 tấm… [11]
Hãy tiếp tục theo dõi sự nghiệp của Thái Phúc, qua sử liệu được đề cập ở
phần trên cho biết Đô đốc Thái Phúc coi giữ thành Nghệ An, tinh thần suy sụp,
mang quân rút lui khỏi thành để trở về Đông Đô, đám tàn quân bị đánh tan tại
sông Phú Lương [sông Hồng], nên phải đầu hàng. Tính mạng Thái Phúc lúc bấy giờ
vào tay nghĩa quân của vua Lê; tại đây cũng có những “tay tổ” về tâm thuật, lại
biết cách biến người hùng Thái Phúc từng coi tính mệnh như “lông hồng”, trở về
với bản chất nguyên thủy của y, sinh mệnh tựa núi “Thái sơn”. Kết quả, Thái
Phúc lập công hợp tác với nghĩa quân, như việc báo cáo một âm mưu tù binh nổi dậy,
giúp chế dụng cụ đánh thành, cùng chiêu dụ quân nhà Minh tại các thành ra hàng.
Khi chiến tranh chấm dứt, y được đưa trở về nước; bị quần thần nhà Minh đàn hạch,
lãnh án tử hình phơi thây giữa chợ với tội trạng như sau:
Ngày 30 tháng 5 năm Tuyên Đức thứ 3 12/7/1428
Thái Trung, Chu Quảng, Tiết Tụ, Chu Tán, Lỗ Quý, Lý Trung bị xử tử.
Phúc là Đô đốc; Quảng, Tụ, Tán đều giữ chức Đô chỉ huy, Quý là Chỉ huy, Trung
là Thiên hộ.
Bọn Phúc trước đây tại Giao Chỉ trấn thủ Nghệ An, bị giặc vây, Phúc
không đánh, lại đem bọn Quảng hàng giặc, chỉ cho giặc tạo chiến cụ để đánh
thành Đông Quan. Lúc bấy giờ hơn 9.000 quân định đốt trại giặc, bọn Phúc lệnh
Bách hộ Mưu Anh tố cáo; giặc giết sạch 9.500 người, rồi đánh các thành như
Xương Giang. Phúc đi thuyết dụ những người trong các thành ra hàng; đến Thanh
Hóa phi ngựa đến dưới thành, kêu to rằng:
“Thủ thành lợi dụng cơ hội đầu hàng có thể bảo tồn mạng sống, không
nghe thì gan não phơi mặt đất.”
Bị bọn Tri châu La Thông chửi mắng nên bỏ đi.
Nay bọn Lợi đưa bọn Phúc đến kinh sư. Mệnh Công, Hầu, Bá, 5 phủ, 6 bộ,
Đô sát viện, cùng các quan 3 bốn lần hặc tội… Đều phúc tấu tội trạng, mệnh hành
quyết phơi thây ngoài chợ và tịch thu gia sản. [12]
5.
Chia rẽ
hàng ngũ giặc
Thông thường khi lâm vào cuộc chiến, nội bộ thường có hai phe: chủ hòa
và chủ chiến. Vua Lê Lợi và đám bầy tôi tham mưu, biết lợi dụng tình hình địch,
đào sâu sự chia rẽ giữa hai phe này. Qua thư từ gửi cho các quan chức nhà Minh
trong Quân trung từ mệnh tập, người đọc thấy được dụng ý chia rẽ của tác
giả Nguyễn Trãi, khéo dùng ngòi bút phân biệt đối xử. Đối với tên tướng hiếu
sát như Đô đốc Phương Chính, thì mở đầu thư, thường là một câu chửi:
Thị nhĩ ngược tặc Phương Chính (Bảo cho mày biết, tên ngược tặc
Phương Chính)
Nhưng đối với Sơn Thọ thì dùng lời lẽ mềm dẻo hơn. Thuật xử thế và ngoại
giao đã chinh phục được Sơn Thọ, khiến y dám đứng trước mặt vua Nhân Tông bảo
lãnh cho vua Lê Lợi:
Ngày 4 tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 22 22 [26/9/1424]
Sai trấn thủ Giao Chỉ Trung quan Sơn Thọ mang sắc dụ Đầu mục Giao Chỉ
Lê Lợi. Sắc rằng:
“Ngươi vốn là kẻ lương thiện, từ lâu có lòng thành qui phụ. Nhưng quan
ty cai trị không đúng cách, sinh ra nghi sợ; rồi ẩn trốn nơi núi rừng, không toại
chí nguyện. Nay sau khi đại xá, bỏ hết sai lầm quá khứ, hàm chứa sự canh tân. Đặc
cách sai người mang sắc dụ ban cho ngươi chức Tri phủ Thanh Hóa, cai trị dân một
quận. Hãy đến nhận chức ngay, để đáp lại sự cứu xét đến lòng thành và bao dung
đãi người của Trẫm.”
Sở dĩ có sắc dụ này, vì Thọ tâu trước mặt Thiên tử rằng Lê Lợi và y hợp
ý nhau, nay đến dụ sẽ trở về. Thiên tử nói:
“Bọn giặc gian trá, ngươi không biết được; nếu bị lừa, đây là dịp giúp
cho thế giặc ngày một lớn, khó mà chế ngự.”
Thọ khấu đầu tâu rằng:
“Nếu như thần dụ mà nó không quay về, thì tội thần đáng vạn lần chết.”
Bèn giáng sắc này. [13]
Việc ban sắc phong cho Lê Lợi làm Tri phủ Thanh Hóa, khiến quân Minh
tham chiến đâm ra lưỡng lự giữa hai con đường chiến và hòa. Phe Sơn Thọ thì ngồi
chờ sẵn tại thành Nghệ An để đợi Lê Lợi nhậm chức, trong khi đó chỉ huy quân
như Trần Trí, Phương Chính thì chần chừ, cãi cọ không thống nhất trong việc tiến
quân. Càng chia rẽ, chần chừ, càng giúp nghĩa quân đạt nhiều chiến thắng, mau lớn
mạnh. Sự thực được tóm tắt qua chiếu dụ của vua Tuyên Đức ngày 12/4/1426 đã dẫn
ở phần trên.
Bàn về chiến lược và chiến thuật có muôn màu muôn vẻ; huống hồ người đời
nay luận về việc làm của người xưa nên không khỏi có những chỗ võ đoán, như thầy
bói mù sờ voi. Tuy nhiên căn cứ sử sách còn lưu lại, người viết cố gắng phác họa
những nét đại cương, mong được sự đóng góp thêm của các nhà nghiên cứu lịch sử
và quân sự.
Hồ Bạch Thảo
--------------------
[1]Minh Thực lục v. 18, tr.
1057-1062.
[2]Đại việt sử ký toàn thư, NXB
Khoa học Xã hội, tập 2, tr. 256-257.
[3]Minh Thực lục q. 15, tr.
0395-396.
[4]Trà Lung: sử nước ta gọi là
Trà Lân, hay Trà Long.
[5]Tam ty: tức Đô ty, Bố chánh
ty, Án sát ty.
[6]Minh Thực lục v. 16,
tr.148-149; Tuyên Tông q. 6, tr. 1b.
[7]sđd, tr. 253.
[8]Minh Thực lục q. 31, tr.
0797-0801.
[9]Minh Thực lục q. 27, tr.
0701-702.
[10]Minh Thực lục v. 11, tr.
893-894; Thái Tông q. 62, tr. 3a-3b.
[11]Minh Thực lục v. 11,
tr.1080-1088; Thái Tông q. 81, tr. 2b-6b.
[12]Minh Thực lục v. 18, tr.
1075-1076; Tuyên Tông q. 43, tr. 17a-17b.
[13]Minh Thực lục v. 15, tr.
0057-058; Nhân Tông, tập Trung, q. 2, tr.5a-6b.
Nhận xét
Đăng nhận xét