Giai thoại PHAN VĂN TRỊ
Giai thoại PHAN VĂN TRỊ
Phan Văn Trị (1830-1910) sinh tại làng Hạnh Thông, tỉnh Gia Định. Hai mươi tuổi đỗ cử nhân (năm Kỷ Dậu,Tự Đức II, 1849) nên thường gọi là Cử Trị. Thang mây sẵn bước, có thể ruổi dong trên hoạn lộ dễ dàng, nhưng vì tính khí ngang tàng, ông không chịu bó buộc thân mình, mặc dầu gia đình thanh bạch. Ông lấy việc dạy học và bốc thuốc làm phương độ nhật. Khi quân Pháp gây hấn ở Gia Định (1862) ông tránh xuống Vĩnh Long, kết bạn với Nguyễn Đình Chiểu và Huỳnh Mẫn Đạt.
Phẫn uất trước sự bạo tàn của quân giặc, ông làm bài “Gia Định thất thủ phú khá dài (xem trong Thi viện).
Năm 1867, Vĩnh Long lọt vào tay Pháp, ông cảm khái thốt ra lời thơ đau đớn trước sự bất lực của nhà cầm quyền Việt Nam :
Vĩnh Long thất thủ
Tò te kèn thổi, tiếng năm ba,
Nghe lọt vào tai ruột xót xa.
Uốn khúc sông Rồng mờ mịt khói,
Vắng hoe thành Phụng ủ rầu hoa.
Tan nhà, căm nỗi câu ly hận,
Cắt đất, thương thay cuộc giảng hoà!
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ,
Ngậm cười, hết nói nỗi quan ta!
Từ đó, ông thường mượn thi văn để tỏ lòng phẫn uất về cảnh nước mất nhà tan,chỉ trích những người hợp tác với chính quyền mới,lời lẽ đanh thép và ngạo nghễ.
Dưới đây là mấy bài thơ tả cái tâm sự kẻ sĩ phu đứng trước quốc nạn:
Cảm hoài
Cõi Nam chung hưởng cuộc thăng bình,
Trời đất gây nên cuộc chiến tranh,
Xe ngựa rộn ràng, xe ngựa khách,
Nước non vun quén, nước non mình.
Những trang dụng thế đành ngơ mặt,
Mấy gã trung quân nỡ phụ tình!
Bao thuở đem về cơ nhất thống?
Ngàn thu bia tạc đứng trung trinh.
Phong trần lắm lúc luống sầu riêng,
Biết mượn tay ai gỡ mối phiền?
Áo mũ ba đời, ơn rất trọng,
Can qua một cuộc, nghĩa chưa tuyền.
Trớ trêu, con tạo lòng đa xảo,
Tráo trở, anh hùng buổi thiếu niên!
Phất phới bụi hồng đà trải dấu,
Tâm tình chiều uốn thú hàn huyên.
Tay nâng, há dám một mình đây?
Kẻ Bắc người Nam bấn dạ nầy.
Thế sự lăng xăng cờ túng nước,
Nhân tình tráo chác gió rung cây.
Giao hoà, bởi sợ mưu mô cạn,
Cắt đất, vì kiêng trí lực dày.
Ướm hỏi những ai trên đất Việt,
Tấm lòng thiết thạch há như vầy?
Tài năng chi đó khéo trêu ngươi!
Cái phận nam nhi luống nực cười:
Ngược đậu, xuôi đi, hiềm thế nước,
Sâu dầm, cạn vén, thuận tình đời,
Quan san dặm thẳng đường liền bước,
Tùng cúc vườn xưa cảnh nhớ người.
Tạo hoá một bầu xoay khí vận,
Đông qua xuân lại trở màu tươi.
Tổng đốc Trần Bá Lộc nghe danh ông, nên khi qua Vĩnh Long cho lính đòi ông đến, ý muốn trừng trị thái độ ương ngạnh, Lộc bắt ứng khẩu làm một bài thơ. Ông xin cho đầu bài. Lộc vốn thô lỗ, buông lời tục tĩu:
- Cục c.. !
Ông đứng ngâm ngay bốn câu:
Đương cơn lộn xộn ló đầu ra,
Người thấy, ai mà chẳng sợ va!
Cậy thế, khom lưng ngồi dưới đít
Biết đâu sắp bị chó liền tha!
Thơ tả đúng đầu đề, nhưng mỉa mai bao nhiêu cho cái uy quyền vay mượn của viên tổng đốc mới! Lộc nghe xong mắc cở, đuổi Cử Trị về.
Cuộc xướng hoạ làm cho ông nổi tiếng nhất thời ấy, là cuộc bút chiến với Tôn Thọ Tường.
Cử Trị cùng các bạn Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt,… đứng về phe bất hợp tác, còn Tôn ở phe hợp tác.
Tôn sinh năm 1825, cũng ở Gia Định. Thân phụ là Tôn Thọ Đức, nguyên làm tuần vũ Thuận Khánh (Bình Thuận - Khánh Hoà). Năm 30 tuổi, thi hương hỏng, ra Huế, xin tập ấm làm quan văn, bất đồ triều đình lại bổ sang ngành võ, Tôn bất mãn, bỏ về. Đến 1862,triều đình nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông , muốn lấy lòng dân , kêu gọi sự hợp tác của sĩ phu , Tôn vì sinh kế phải hưởng ứng, được Pháp trọng dụng, cho làm tri phủ Tân Bình, dần dần lên đến chức đốc phủ sứ.
Tôn ra hợp tác, cho mình là thức thời vụ. Thầm mong lôi cuốn bằng hữu vào một đường với mình , hay đâu các bạn từ đó đều quay mặt đi, ai cũng mỉa mai là tên bán nước.
Tôn bị cô lập, lại bị mạt sát nặng nề, tự thấy hối hận, và bởi trót mắc vào vòng rồi, đành làm 10 bài thơ nhan đề là “Giang sơn ba tỉnh” , bào chữa cho mình, và thanh minh với dư luận.
Mười bài này phổ biến ra, Cử Trị liền làm mười bài hoạ lại. Dưới đây xin chép từng bài xướng hoạ, để thấy rõ lập trường của hai phái “hợp tác” và “bất hợp tác”.
Bài xướng I ( Tôn Thọ Tường )
Giang san ba tỉnh hãy còn đây,
Trời đất xui chi đến nỗi nầy?
Chớp nhoáng thẳng bon dây thép kéo,
Mây tuôn đen kịt khói tàu bay.
Xăng văng thầm tính, thương đôi chỗ,
Khấp khởi riêng lo, biết những ngày.
Miệng cọp hàm rồng chưa dễ chọc,
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay!
Tường khoa trương lực lượng Pháp: dây thép, tầu biển, khuyên chớ làm như con trẻ chọc vào miệng cọp hàm rồng.
Bài hoạ ( Phan Văn Trị )
Hơn thua chưa quyết đó cùng đây,
Chẳng đã, nên ta mới thế nầy.
Bến Nghé quản bao cơn lửa cháy,
Cồn Rồng dầu mặc bụi tro bay.
Nuôi muông giết thỏ còn chờ thuở,
Bủa lưới săn nai cũng có ngày.
Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ,
Lòng ta sắt đá há lung lay!
Cử Trị tả sự tàn bạo của kẻ xâm lăng “lửa thiêu Bến Nghé, tro bay Cồn Rồng”. Nhưng mặc dầu vậy, ta cũng cứ kiên chí nuôi muông bủa lưới , có ngày giết thỏ săn nai, ngươi đừng mượn hơi hùm , mà rung cây cho khỉ sợ ...
Bài xướng II ( Tôn Thọ Tường )
Thày lay lại chuốc lấy danh nhơ,
Ai mượn mình lo việc bá vơ?
Trẻ dại, giếng sâu, lòng chẳng nỡ,
Đường xa, ngày tối, tuổi không chờ. (1)
Áo xiêm chán thấy xăng tay thợ,
Xe ngựa nào toan gỡ nước cờ.
Rủi rủi may may đâu đã chắc?
Miệng lằn lưỡi mối hãy tai ngơ!
(1) Ngũ Tử Tư người nước Sở, cha anh bị vua Sở giết, chạy sang nước Ngô mưu việc báo thù, có nói : “ Nhật mộ đồ viễn, đảo hành nghịch thi” nghĩa là ngày sắp tối,đường còn xa, phải nên làm việc mau gấp đảo ngược cho chóng thành công.
Bày trò ra thì mang xấu, lo chuyện bâng quơ làm gì: ta thấy giếng sâu, không nỡ cho trẻ lao mình xuống, và đương xa ngày tối, đi sao cho kịp? Cứ xem các quan ta cố chống trả mà có gỡ được nước cờ đâu, vậy đừng nên nghe xui dại.
Bài hoạ ( Phan Văn Trị )
Lung lay lòng sắt đã mang nhơ,
Chẳng xét phận mình khéo nói vơ!
Người trí mảng lo danh chẳng chói,
Đứa ngu mới sợ tuổi không chờ.
Bài hòa đã sẵn trong tay thợ,
Việc đánh hơn thua giống cuộc cờ.
Chưa trả thù nhà đền nợ nước,
Dám đâu mắt lấp lại tai ngơ!
Tôn dụng tâm lung lạc người trí thức, ấy là xấu rồi: kẻ trí phải lo trọn đạo, đứa ngu mới hành động ăn xổi ở thì, bây giờ giảng hoà là ta thua rồi, nhưng đó đã chắc được chưa, chúng ta không thể làm ngơ trước thù nhà nợ nước.
Bài xướng III ( Tôn Thọ Tường )
Tai ngơ mắt lấp buổi tan tành,
Nghĩ việc đời thêm hổ việc mình.
Nghi ngút tro tàn nhà đạo nghĩa,
Lờ mờ bụi đóng cửa trâm anh.
Hai bên vai gánh ba giềng nặng,
Trăm tạ chuông treo một sợi mành.
Trâu ngựa dầu kêu, kêu cũng chịu,
Thân còn chẳng kể, kể chi danh!
Cũng vì tan tành nên không ngơ được: nền lễ giáo đã mất, ta vẫn phải cứu vãn lại, nhưng việc thật khó khăn; quả chuông trăm tạ đem treo bằng sợi chỉ. Thôi thì bảo ta là trâu ngựa ta cũng chịu, ta ra cộng tác thế này còn nghĩ gì đến thân danh nữa; cốt cứu được nước mà thôi.
Bài hoạ ( Phan Văn Trị )
Tai ngơ sao được lúc tan tành,
Luống biết trách người chẳng trách mình.
Đến thế còn khoe danh đạo nghĩa,
Như vầy cũng gọi cửa trâm anh.
Khe sâu vụng tính dung thuyền nhỏ,
Chuông nặng to gan buộc chỉ mành.
Thân có, ắt danh tua phải có,
Khuyên người ái trọng cái thân danh.
Muốn trách người phải trách mình trước. Đã cộng tác thì đừng nói đến đạo nghĩa, trâm anh, làm gì. Chúng ta đã trót vụng tính để thuyền nhỏ lọt vào khe sâu, thì phải có gan treo chuông bằng sợi chỉ, ấy là bảo trọng thân đấy.
Bài xướng IV ( Tôn Thọ Tường )
Kể chi danh phận lúc tan hoang,
Biển rộng trời cao nghĩ lại càng ...
Lên núi bắt hùm chưa dễ láo,
Vào sông đánh cá, há rằng oan.(1)
Người giương mắt ngạo đôi tròng bạc,
Kẻ ứa gan trung bảy lá vàng.
Chiu chít thương bầy gà mất mẹ,
Cũng là gắng gỏi, dám khoe khoang!
(1) Nhập giang nhi viết phi ngư, thuỳ kỳ tín giả: Lội xuống sông mà chối là không phải là đi kiếm cá, ai mà tin được!
Lúc này kể gì danh phận nữa, nhưng nghĩ vì Pháp bây giờ đương mạnh thế, mà tôi nói rằng lên núi bắt hùm, chưa ắt đã là nói láo, ngặt vì trót lội sông rồi mà bảo là không phải để đi bắt cá, thì chẳng ai tin cho! Các ông
chỉ trích tôi , thật đau đớn cho tôi: vì tôi thương gà con mất mẹ nên mới
gánh vác việc nước.
Bài hoạ ( Phan Văn Trị )
Thân danh chẳng kể, thiệt thằng hoang!
Đốt sáp nên tro lụy chẳng càn ...(1)
Hai cửa trâm anh xô sấp ngửa,
Một nhà danh giáo xáo tan hoang.(2)
Con buôn khấp khởi chưa từng ngọc,
Người khó xăng văng mới gặp vàng.
Thương kẻ đồng văn nên phải nhắc,
Dễ ta đâu dám tiếng khoe khoang.
(1) Càn: khô
(2) Vần oan họa vần hoang, theo âm miền Nam.
Thân danh mà không đếm xỉa đến, thật là vô liêm sỉ. Khá thương cho kẻ đốt sáp thành tro, làm điếm nhục đến gia thanh. Chỉ trông thấy ngọc đã loé mắt, không biết rằng có chịu khổ sở mới thành công . Vì ông cũng là trong mạch thư hương nên mới nói mà thôi.
Bài xướng V ( Tôn Thọ Tường )
Khoe khoang sức giỏi cậy tài khôn,
Múa mép khua môi cũng một phồn. (1)
Tơ vấn cánh ruồi kinh trí nhện,
Gió đưa hơi cọp khiếp oai chồn.
Siêng lo há đợi cơm kề miệng,
Chậm tính nào ngờ nước đến trôn.
Hay dở chuyện đời còn lắm lối,
Múa men xin hãy chớ bôn chôn.
(1) Phồn: bọn, lũ
Thôi đừng ba hoa nữa. Sức các ông như cánh ruồi mà định làm cho nhện sợ; như lũ chồn, ngửi thấy hơi cọp là run . Nếu biết lo thì chẳng nên đợi ai đưa cơm kề miệng cho mình; nước đến trôn lúc nào cũng không biết.
Bài hoạ ( Phan Văn Trị )
Khoe khoang việc phải, mới rằng khôn,
Kẻ vạy người ngay há một phồn!
Hồng dẫu hư lông đâu sợ sẻ,
Hùm như thất thế dễ thua chồn.
Ngươi Nhan xá ngại dao kề lưỡi,
Họ Khuất nào lo nước đến trôn.
Tháy máy gặp thời ta sẽ động,
Muốn nên việc lớn chớ bôn chôn.
Kẻ trái người phải sao lại vơ đũa cả nắm? Chim hồng tuy mất ít lông đâu có sợ chim sẻ, hùm mà thất thế há thua chồn. Nhan Cửu Khanh đời Đường bị giặc bắt, chửi giặc,giặc đem cắt lưỡi vẫn không hề sợ. Khuất Nguyên can vua Sở, biết vua sẽ ghét mình sẽ nguy, đã quyết nhảy xuống sông Mịch La còn sợ gì nước đến trôn! Hễ cơ hội đến là ta sẽ hành động.
Bài xướng VI ( Tôn Thọ Tường )
Hãy chớ bôn chôn việc cửa nhà,
Sau này còn ngại nỗi đàng xa.
Ma duồng cơn ngặt lung hai trẻ, (1)
Trời mỏn lòng thương xót một già.
Lái đã vững vàng cơn sóng lượn,
Thoi toan đan dệt lúc mưa sa.
Ở đời há dễ quên đời được,
Tính thiệt so hơn cũng gọi là ...
(1) Hai trẻ: nhị thụ đồng tử - bệnh nặng lắm đã vào đến mạng mỡ.
Đường xa , còn nhiều trở ngại lắm. Nước ta ví như người già trời còn thương, nhưng mà hai trẻ cứ giục chết cho mau . Cơn sóng lựơn nay ta đã cầm lái vững, ta lại lo dệt áo phòng mưa nữa. Phải suy hơn thiệt,chớ đừng mai mỉa, không công bằng.
Bài họa ( Phan Văn Trị )
Bôn chôn cũng bởi bận vì nhà,
Dám trách người xưa chửa tính xa?
Hăm hở hãy đang hăng sức trẻ,
Chìu lòn e cũng mỏn hơi già.
Mồi thơm cá quý câu không nhạy,
Cung yếu chim cao bắn chẳng sa?
Đáy giếng trông trời giương mắt ếch,
Làm người như vậy cũng rằng là ...
Đâu dám trách ông nông nổi: ông hăm hở vì tuổi trẻ hăng hái, còn tôi thì không thể nào chịu luồn cúi như ông được. Ông muốn dụ chúng tôi, nhưng mồi thơm không câu được cá quý,cung yếu không bắn được chim cao. Ông không biết ngó xa trông rộng, như thế không xứng đáng là kẻ sĩ.
Cũng gọi là người ắt phải lo,
Có hay chịu khó mới nên trò.
Bạc mông mênh biển cầu toan bắc,
Xanh mịt mù trời thước rắp đo.
Nước ngược chống lên thuyền một mái,
Gác cao bó lại sách trăm pho.
Lòng này dầu hỏi mà không hổ,
Lặng xét thầm soi cũng biết cho.
Người ta phải thực tế, không nên viễn vông, bắc cầu trên biển, lấy thước đo trời. tiếc thay tình thế ngửa nghiêng mà một mái thuyền toan chống, thôi cái lối ngồi cao xem sách, các ông nên xếp đi thì hơn . Tôi tự xét không hổ với mình, đã có trời xét soi.
Bài hoạ ( Phan Văn Trị )
Rằng là người trí cũng xa lo,
Nhuần nhã kinh luân mới phải trò.
Ngay vạy nảy ra cho biết mực,
Thấp cao trông thấy há rằng đo.
Xe Châu nào đợi kinh năm bộ,
Níp Tống vừa đầy sách nửa pho.
Chuốc miệng khen người nên cắc cớ :
Đạo trời ghét vạy há soi cho!
Đã là người trí, thì phải lo xa, phải xử sự cho đúng đạo thánh hiền. Ai cong ai ngay, ai cao ai thấp, cần gì phải nói. Tôi học cũng nông nổi thôi, nhưng khuyên ông nên ở phải, đạo trời đâu có soi cho kẻ ở cong queo!
Bài xướng VIII ( Tôn Thọ Tường )
Đã biết cho chưa, hỡi những người,
Xin đừng tiếc hận, chớ chê cười!
Ví dầu vật ấy còn roi dấu,
Bao quản thân nầy chịu dễ ngươi.
Trăng giữa ba thu mây cũng tỏ,
Hoa trong chín hạ nắng càng tươi.
Khó lòng mình biết lòng mình khó,
Lòn lỏi công trình kể mấy mươi.
Xin đừng chê cười: các ông khinh tôi cũng chẳng ngại, miễn là nước vẫn còn. Rồi ra trăng sáng thì mây mờ; hoa tàn gặp nắng lại tươi,chỉ mình tôi
biết cho tôi có công trình luồn lỏi đã nhiều cũng vì thương nước thương dân.
Bài hoạ ( Phan Văn Trị )
Soi cho cũng biết ấy là người,
Chẳng tiếc thân danh, luống sợ cười;
Ba cõi may dầu in lại cũ,
Đôi tròng trông đã thấy không ngươi.
Ngọc lành nhiều vết coi sao lịch,
Thợ vụng ít màu nhuộm chẳng tươi.
Đứa dại chót đời, già cũng dại,
Lựa là tuổi mới một đôi mươi!
Ông kể cũng lạ, chẳng tiếc thân danh lại sợ chê cười! Nếu đất nước thu về được, thì chẳng ai thèm nhìn đến ông, vì ngọc lành đã nhiều vết, thợ nhuộm vụng tay. Thật là già đời còn dại.
Bài xướng IX ( Tôn Thọ Tường )
Kể mấy mươi năm nước lễ văn,
Rắn dài, beo lớn, thế khôn ngăn;
Bốn đời, chung đội ơn nuôi dạy,
Ba tỉnh, riêng lo việc ở ăn.
Hết sức người theo trời chẳng kịp,
Hoài công chim lấp biển không bằng.
Phải sao chịu vậy thôi thì chớ,
Nhắm mắt đưa chân lỗi đạo hằng.
Tôi cũng bốn đời gia thế, nay một mình phải lo liệu cho đời sống dân ba tỉnh, tiếc rằng việc nước khó gỡ lại. Chim tinh vệ hoài công tha đá mà lấp biển không bằng, thôi thì tôi nhắm mắt đưa chân, lỗi đạo thì đành chịu.
Bài họa ( Phan Văn Trị )
Một đôi mươi uổng tính xăng văng,
Đất lở ai mà dễ dám ngăn?
Nong nả dốc vun nền đạo nghĩa,
Xốn xang nào tưởng việc làm ăn.
Thương người vì nước ngồi không vững,
Trách kẻ cầm cân kéo chẳng bằng.
Gió mạnh mới hay cây cỏ cứng,
Dõi theo người trước giữ năm hằng.
Đã đành ngăn sao được đất lở, nhưng mà tính quẩn làm gì, lo gì việc làm ăn, hãy cốt giữ vững lấy đạo nghĩa. Ta những thương kẻ bôn ba lo việc nước và trách kẻ muốn kéo cân lại cho bằng mà chẳng nên. Cây cỏ tuy yếu nhưng có gió to mới biết là cứng; nên ở đúng đạo làm người thì hơn.
Bài xướng X ( Tôn Thọ Tường )
Đạo hằng chi trước thảo cùng ngay,
Lỗi đạo sao cho đáng mặt thầy.
Đất quét đã thành bia lỗ miệng,
Chén tràn e nỗi trở bàn tay.
Nghĩa đen dạy trẻ tranh còn lấp,
Mặt trắng xem trời cánh khó bay.
Chí muốn ngày nào cho được toại?
Giang sơn ba tỉnh hãy còn đây!
Ai chẳng biết đạo thảo ngay , song đi với kẻ thắng đã đành là xấu , nhưng để nước tràn ra ngoài chén thì còn cứu vãn sao kịp; đem lời thực bảo cho mà không nghe thì các ông khó có cánh bay đâu được . Chí muốn của các ông bao giờ thành được? Mà đất có mất đâu: giang sơn hãy còn đây mà.
Bài họa ( Phan Văn Trị )
Năm hằng vốn thiệt thảo cùng ngay,
Cuộc ấy ai xui khéo bận thầy.
Gặp lúc chẳng may nên ngậm miệng,
Chờ khi tháy máy sẽ ra tay.
Nổi chìm mặc thế tình dày mỏng,
Cao thấp dầu ta sức nhảy bay.
Một trận gió đưa xiêu ngã cỏ,
Hơn thua chưa quyết đó cùng đây.
Thật thế, đạo thảo ngay phần người ta giữ, ai khiến ông lo dùm? Chúng ta gặp bước không may thì ngậm miệng chờ thời cuộc xoay vần . Dân tộc lầm than nhiều ít hãy nán lòng đợi, ta có lúc sẽ đem toàn lực tranh cao thấp . Cỏ bị gió thì ngã xuống, nhưng sự hơn thua đã biết chắc là về ai?
Bạn của Cử Trị là Thủ khoa Nghĩa (Bùi Hữu Nghĩa), thấy Cử Trị hoạ 10 bài của Tôn Thọ Tường, cũng cao hứng làm bài thơ sau đây:
Anh hùng sàu tỉnh (1) thiếu chi đây,
Đâu để giang sơn đến thế nầy.
Ngọn lửa Tam Tần (2) phừng đất cháy,
Chòm mây Ngũ Quí (3) lấp trời bay.
Hùm nương non rậm toan chờ thưở,
Cáo loạn vườn hoang thác có ngày.
Một góc cảm thương dân nước lửa,
Đền Nam trụ cả dễ lung lay!
(1) Sáu tỉnh: 3 tỉnh miền Đông: Biên Hoà, Gia Định, Định Tường; 3 tỉnh miền Tây: Long Hồ, An Giang, Hà Tiên
(2) Tam Tần: thời kỳ các nước bị áp chế dưới bàn tay sắt Tần Thỉ Hoàng
(3) Ngũ Quí: Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu
Sau cuộc bút chiến hào hứng nói trên , họ Tôn không còn dám khoe lực lượng Pháp và coi nhân dân như trẻ nít nữa. Ông dựa vào hoàn cảnh để cãi tội : vì hoàn cảnh mà ông phải quyền biến chứ lúc nào cũng chỉ một lòng cứu nước cứu dân. Ông ngụ tình vào bài thơ sau :
Tôn phu nhân qui Hán ( Tôn Thọ Tường )
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng,
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông!
Lìa Ngô, bịn rịn chòm mây bạc,
Về Hán, trau tria mảnh má hồng.
Son phấn thà cam rây gió bụi,
Đá vàng chi để thẹn non sông!
Ai về nhắn với Chu Công Cẩn:
Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng.
Tôn phu nhân đi lấy chồng lúc nào cũng nhớ nhà, như mình theo Tây vẫn không quên nước: bịn rịn chòm mây bạc. Tường cũng như phu nhân thà chịu đau khổ, nhưng không thẹn với non sông, vì đã làm theo nghĩa vụ: Son phấn thà cam rây gió bụi, đá vàng chi để thẹn non sông. Tuy có mất lòng anh (phái bất hợp tác) song được bụng chồng (quốc gia) vì có thể đỡ đần được cho dân khỏi khổ.
Bài thơ này truyền ra, Cử Trị họa lại trả lời ngay:
Cài trâm sửa áo vẹn câu tòng,
Một ngả trời chiều biệt cõi Đông.
Khói tỏa trời Ngô chen thức bạc,
Duyên về đất Thục đượm màu hồng.
Hai vai tơ tóc bền trời đất,
Một cánh cương thường nặng núi sông.
Anh hỡi, Tôn Quyền, anh có biết,
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng!
Đại ý nói ông sắm sửa quần áo theo Tây, mặc kệ cảnh khói lửa lầm than, tìm đến chỗ màu hồng đẹp đẽ, quên rằng cương thường không thể nào bỏ được: trai ngay thờ chúa cũng như gái tiết hạnh phải thờ chồng.
Sau đó Tôn lại làm một bài ngụ ý nữa, tự ví mình như Từ Thứ bất đắc dĩ phải theo Tào , nhưng không theo thật lòng nên phải ngậm miệng , không giúp Tào một mưu chước nào:
Từ Thứ quy Tào
Thảo đâu dám sánh kẻ cày voi, (1)
Muối xác lòng ai, nãy mặn mòi.
Ở Hán hãy còn nhiều cột cả,
Về Tào chi sá một cây còi!
Bâng khuâng nhớ mẹ khôn nâng chén,
Bịn rịn trông vua biếng giở roi.
Chẳng đặng khôn Lưu đành dại Ngụy,
Thân này xin gác ngoại vòng thoi!
(1) Vua Thuấn đi cày, có con voi cảm lòng hiếu thảo của vua, ra giẫm nát đất để cày giúp
Tự mình đâu có dám bảo mình cũng yêu nước như ai, song nước nhà còn nhiều người xứng đáng (cột cả) thì một người xoàng như mình (cây còi) có theo Tây cũng chẳng đi đến đâu. Tuy theo, nhưng vẫn nhớ nước nhớ vua. Thôi thì chẳng được đua khôn với các ông thì đành về với Tây,nhưng về thì cũng chi xin làm kẻ dại mà thôi, từ nay xin đứng ra ngoài vòng quốc sự.
Cử Trị đáp lời ngay:
Quá bị trên đầu nhát búa voi,
Kinh luân đâu nữa để khoe mòi!
Xăng văng ruổi Ngụy mây ùn đám,
Dáo dác xa Lưu, gió thổi còi.
Đất Hứa nhớ thân sa giọt tủi (1)
Thành Tương mến chúa nhẹ tay roi!
Về Tào miệng ngậm như bình kín,
Trân trọng lời vàng đáng mấy thoi?
(1) Đất Hứa: tỉnh Hứa Xương
Các ông đã theo Pháp ùn ùn như mây kéo, tránh xa cái nước yếu này rồi. Tuy thỉnh thoảng cũng nhớ nước mà sa lệ,nhưng lúc ra đi sao mà tay roi đét ngựa lẹ đến thế? Ông hứa sẽ ngậm miệng không bầy mưu gì cho Pháp, nhưng lời ông liệu đáng tin đến mực nào?
Sau đó, Tôn lại nói tâm sự mình trong một bài thơ vịnh Thuý Kiều, cho là mình vẫn không quên tổ quốc, phải ra làm việc với Pháp chỉ vì lòng muốn nâng đỡ cho dân khỏi điêu linh và kết luận rằng mọi việc tại trời xui nên cuộc biến mà mình phải khổ lòng.
Vịnh Thuý Kiều
Mười mấy năm trời nhục rửa xong,
Sông Tiền Đường đục hoá ra trong.
Mảnh duyên bình lãng còn nong nả
Chút phận tang thương lắm ngại ngùng.
Chữ hiếu ít nhiều: trời đất biết,
Gánh tình nặng nhẹ: chị em chung.
Soi gương kim cổ thương mà trách,
Chẳng trách chi Kiều, trách hoá công.
Cử Trị lại đứng ra mắng Thuý Kiều, sao không học Đề Oanh dâng thơ cho vua, lại tham vàng họ Mã, mà phụ nghĩa chàng Kim, rồi đem thân cho thiên hạ mua cười:
Tài sắc chi mi, hỡi Thuý Kiều!
Cũng thương mà trách một đôi điều:
Ví dù Viên ngoại oan vu lắm,
Sao chẳng Đề Oanh sớ sách kêu?
Cái nghĩa chàng Kim tình đáng mấy,
Lượng vàng họ Mã đáng bao nhiêu!
Liêu Dương ngàn dặm xa chi đó,
Nỡ để Lâm Tri bướm dập dìu!
Cuộc bút chiến đến đây chấm dứt , vì từ đây , Tôn “miệng ngậm như bình kín”, mặc cho sự thế xoay vần, miễn sao mình được lên xe xuống ngựa.
Đại để sự xung kích của hai phe, cũng tương tự như cuộc đấu lý của Phan Đình Phùng với Hoàng Cao Khải sau này. Hai thái độ, hai tâm sự, dù kim cổ, lịch sử âu chỉ là một cuộc tái diễn.
Tôn Thọ Tường mất năm 1876, thọ 52 tuổi.
Cử Trị sau về ở Cần Thơ, vẫn theo đuổi việc dạy học và bốc thuốc, mất năm 1910, thọ 81 tuổi. Một thân hữu đi điếu bài thơ:
Một đời oan chịu đã mòn hơi,
Hà huống oan oan đến chín đời.
Văn học có thừa thương những kẻ,
Công danh chẳng toại tiếc cho người.
Doanh hư tiêu trướng đều nơi mạng,
Đắc túng cùng thông tượng bỡi trời.
Uổng đấng tài ba dòng thế phiệt,
Ra tuồng lưu lạc khắp nơi nơi.
Nhận xét
Đăng nhận xét