TÍNH TUỔI CHỊ EM THÚY KIỀU BẰNG… NGỮ PHÁP
TÍNH TUỔI CHỊ EM THÚY KIỀU
BẰNG… NGỮ PHÁP
1.
Truyện Kiều nói mãi không
cùng. Vậy cho nên chỉ một vấn đề nhỏ là tuổi của hai chị em Thúy Kiều cũng đã
thu hút nhiều nhà nghiên cứu và biên khảo tham gia tranh luận. Tựu trung có hai
quan điểm.
Quan điểm thứ nhất căn cứ vào
thiên Nội tắc trong Kinh Lễ: “Nữ tử thập hựu ngũ niên nhi kê” 女子十有五年而笄 (Con gái 15 tuổi thì cài trâm), và cho rằng Thuý Kiều
“gần 15 tuổi” (tức nhiều nhất là 14). Hầu hết các nhà biên khảo Truyện Kiều xưa
nay khi chú giải câu “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” đều hiểu rằng
hai chị em Kiều gần tới tuổi “cập kê” 及笄, tức
là gần 15 tuổi. Ủng hộ quan điểm này là hầu hết các nhà biên khảo: Bùi Kỉ và Trần
Trọng Kim [1925, tr. 55], Bùi Khánh Diễn [1926, tr. 23], Tản Đà [1941, tr. 15]…
Lê Văn Hòe [1952, tr. 16] cũng chấp nhận quan điểm “Kiều gần 15 tuổi”, để từ đó
phê phán Nguyễn Du:
“Kiều mới gần 15 tuổi; cách
Thúy-Vân rồi mới đến Vương-Quan. Nghĩa là Vương-Quan tuổi mới độ 11, 12 là
cùng. Vậy mà Vương-Quan lại hiểu truyện Đạm-Tiên kỹ càng, tỉ mỉ như thế. Còn Kiều
thì không biết tí gì. Đó cũng là một điều khó tin, nhất là Kiều lại không phải
người vô học. Nhà chép truyện sắp đặt chưa được khéo” [1952, tr. 20].
Quan điểm thứ hai bắt đầu từ Lê
Thước [1942], trên tạp chí Tri Tân, căn cứ vào phân tích tâm lí và hành động
nhân vật, vào nguyên truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mô tả cái tuổi “niên
phương nhược quán” (theo Kinh Lễ là 20 tuổi) của Kim Trọng lúc gặp Nhị Kiều,
rồi ông cho rằng Thúy Kiều lúc ấy “phỏng độ 20 tuổi”. Để củng cố lập luận của
mình, Lê Thước lại dẫn sách Từ hải 辭海 cho rằng: “Nữ-tử
hứa giá, kê nhi tự chi; kỳ vị hứa giá, nhị thập tắc kê” (Con gái đã hứa gả
chồng thì cài trâm và đặt tên chữ; còn con gái chưa hứa gả chồng thì hai mươi
tuổi cũng cài trâm) [1942, tr. 4].
Ở đây, Từ hải đã dẫn
chú giải của Trịnh Huyền cho đoạn “Nữ tử thập hựu ngũ niên nhi kê” trong
thiên Nội tắc: “Vị ứng niên hứa giá giả. Nữ tử hứa giá, kê nhi tự
chi. Kì vị hứa giá, nhị thập tắc kê” 謂應年許嫁者.女子許嫁, 笄而字之. 其未許嫁,
二十則笄 (Nói việc thuận theo tuổi mà hứa gả chồng. Con gái
đã hứa gả chồng thì cài trâm và đặt tên chữ. Chưa hứa gả chồng, thì hai mươi tuổi
cũng cài trâm). Trong bài trên, Lê Thước cũng đã chứng minh Kiều và Vân không
thể là chị em song sinh, do có người hiểu lầm câu “Đầu lòng hai ả tố nga”.
Sau này Nguyễn Hùng Vĩ [2012] cũng bổ sung thêm một số chứng cứ. Quan điểm của
Lê Thước ngay lập tức vấp phải phản biện của Nguyễn Văn Nho [1942], tác giả này
cho rằng nếu hiểu Kiều “phỏng độ 20 tuổi” thì đã trở thành cô gái quá lứa lỡ
thì, những phân tích của Lê Thước về “màu sắc quê hương”, “màu sắc lịch sử”,
“màu sắc tâm lí” là những quan niệm của Tây phương đem lại, không phù hợp với
trường hợp này trong thơ Nguyễn Du.
(Tranh
minh họa qua Wikipedia)
Gần đây, Nguyễn Tài Cẩn [2004,
2011] qua các phân tích độc lập với Lê Thước cũng ngả về quan niệm thứ hai:
“Thúy Kiều sẽ vào khoảng 18, 19;
Thúy Vân sẽ vào khoảng 17, 18, và Vương Quan sẽ vào khoảng 16, 17: có vẻ hợp lý
hơn nhiều. Một cô gái 18, 19 thì mới dám sang nhà người yêu bàn đến đại sự cả
cuộc đời; dám quyết định việc tự bán mình để chuộc cha. Một cậu thanh niên 16,
17 thì mới có thể chơi thân với một người tuổi đôi mươi như Kim Trọng” [2004,
tr. 30].
2.
Tôi cho rằng, cách hiểu của các
tác giả trên đều có thể giải thích lại từ góc độ… ngữ pháp. Câu Kiều
số 36: “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” đều được các tác giả trên
ngắt câu là “Xuân xanh / xấp xỉ tới tuần cập kê”, tức là gắn cả cụm “xấp
xỉ tới tuần cập kê” lại với nhau. Chính bởi vậy nên “cập kê” là
15 tuổi theo Kinh Lễ, thì “xấp xỉ tới tuần cập kê” sẽ là tối đa 14 tuổi,
theo quan điểm thứ nhất kể trên. Ngắt câu như vậy ắt sẽ dẫn đến cách hiểu như vậy.
Có một ý tưởng từ rất sớm đã gợi
ý về một cách ngắt câu khác. Đó là ý tưởng của Kiều Oánh Mậu trong bản Nôm do
ông biên khảo và khắc in năm 1902 (xin xem bản ảnh ấn kèm theo trong [Thế Anh,
1999]). Ở đó, để chú giải cho vấn đề “cập kê”, Kiều Oánh Mậu chỉ viết một
lời chua rất ngắn gọn: “Ngôn nhị kiều niên xỉ tương cận, nhi giai dĩ kê
dã” 言二娇年齒相近而皆已笄也 (Nói hai nàng tuổi tác gần
nhau và đều đã cài trâm – xin xem ảnh chụp minh họa). Theo gợi ý của Kiều Oánh
Mậu, chúng ta có thể ngắt câu lại: “Xuân xanh xấp xỉ / tới tuần cập kê”, tức
là “[hai nàng] tuổi tác xấp xỉ nhau, [và đều đã] tới tuần cập kê”. Vậy,
vấn đề là chủ ngữ của câu 36 này có thực sự là “hai nàng” hay không? Xin hãy
xem lại mạch văn Truyện Kiều (ở đây dẫn theo chữ Nôm của bản Kiều Oánh Mậu,
1902).
Từ câu 15 đến câu 38 là đoạn tả
về chị em Thúy Kiều và Thúy Vân. Bốn câu đầu tả chung hai chị em: “Đầu lòng hai
ả tố nga, Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân. Mai cốt cách tuyết tinh thần, Một
người một vẻ mười phân vẹn mười”(câu 15-18); bốn câu tiếp theo tả riêng Thúy
Vân: “Vân xem trang trọng khác vời, Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nàng.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da” (câu
19-22). Đó là điều ai cũng rõ! Nhưng, đoạn còn lại là tả riêng Thúy Kiều, hay
cũng có tả chung hai chị em? Nhiều nhà biên khảo chưa thật sự để ý đến vấn đề
này. Tôi cho rằng 12 câu tiếp theo tả riêng Thúy Kiều: “Kiều càng sắc sảo
mặn mà, So bề tài sắc lại là phần hơn. […] Khúc nhà tay lựa nên xoang, Một cung
bạc mệnh lại càng não nhân” (câu 23-34); còn bốn câu cuối số 35-38 (Phong
lưu rất mực hồng quần, […] Tường đông ong bướm đi về mặc ai) quay lại tả chung
hai chị em, cho nên chủ ngữ của hai câu 35-36 sẽ là “hai chị em”, “hai nàng” chứ
không chỉ nói riêng về Thúy Kiều:
“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ, tới tuần cập kê”.
Xuân xanh xấp xỉ, tới tuần cập kê”.
Khi đánh một dấu phảy ngăn cách
giữa “xấp xỉ” với “tới tuần”, và hiểu chủ ngữ của hai câu trên là “hai chị em”,
thì có thể hiểu hai câu này là “Hai chị em xét về độ phong lưu thì xếp hàng cao
nhất trong giới phụ nữ. Hai chị em xét về tuổi tác thì xấp xỉ nhau, đều đã
tới tuổi cài trâm”. Cách hiểu vấn đề “chủ ngữ” như thế cũng cho thấy bút pháp
mô tả của Nguyễn Du có mở có kết, cân đối và hoàn chỉnh, mở ra với “hai nàng” bằng
một đoạn ngắn 4 câu, rồi đi vào mô tả riêng từng nàng bằng một đoạn dài 16 câu,
và kết lại với “hai nàng” cũng bằng một đoạn ngắn 4 câu.
3.
Chính vì tiếp thu quan điểm của
Kiều Oánh Mậu, nên trong một bản biên khảo Truyện Kiều trước đây, chúng tôi đã
đánh dấu phảy vào giữa câu “Xuân xanh xấp xỉ, tới tuần cập kê”, và chú giải ngắn
gọn như sau:
“Xuân xanh: chữ Hán thanh
xuân, chỉ tuổi trẻ. Tới tuần: đến thời kì. Cập kê及笄:
cài trâm. Theo Kinh Lễ, thiên Nội tắc: “[Nữ tử] thập hựu ngũ
niên nhi kê” ([Con gái] đến tuổi 15 thì cài trâm). Con gái xưa búi tóc và
cài trâm để cho biết mình đã đến tuổi lấy chồng, nên cập kê còn chỉ chung cho
tuổi trưởng thành của người con gái, chứ không nhất thiết là phải đúng 15 tuổi.
N5 [tức bản Kiều Oánh Mậu – NTC]: “Ngôn nhị Kiều niên xỉ tương cận, nhi
giai dĩ kê dã” (Ý nói hai nàng tuổi tác gần nhau mà đều đã đến tuổi cài
trâm). Chủ ngữ của hai câu 35-36 là cả Thúy Kiều và Thúy Vân. Theo N5 thì cả Kiều
và Vân đều đã qua 15 tuổi (tuần cập kê)” [Trần Nho Thìn, Nguyễn Tuấn Cường,
2007, tr. 61]
Với khuôn khổ một chú thích
trong một cuốn biên khảo Truyện Kiều, thì trước đây chúng tôi chưa có điều
kiện để trình bày kĩ càng về vấn đề trên. Nhân gần đây thấy có một số ý kiến
bàn lại về vấn đề tuổi tác của chị em Kiều ([Nguyễn Tài Cẩn, 2011], [Nguyễn
Hùng Vĩ, 2012]), tôi nghĩ cũng cần viết ra cụ thể để được rõ ràng hơn.
4.
Như vậy, theo cách ngắt câu lại
và cách hiểu rõ ràng hơn về từng chủ ngữ của mỗi đoạn trong 24 câu thơ tả chị
em Thúy Kiều, có thể thấy Nguyễn Du không phải là “Nhà chép truyện sắp đặt chưa
được khéo” như phê phán của Lê Văn Hòe. Trong trường hợp này, Nguyễn Du dường
như chỉ mô tả chung đặc điểm mang tính phiếm chỉ “đều đã tới tuổi gả chồng” của
chị em Kiều, chứ không đặt nặng vào độ chi tiết của tuổi tác là 14-15, hay
19-20. Đôi khi, việc cụ thể hóa thái quá một ý thơ không làm chúng ta hiểu sâu
hơn về nó.
Nguyễn Tuấn Cường
------------------------------
Tài liệu trích dẫn:
1.
Bùi Khánh Diễn chú thích (1926), Kim Vân Kiều (Đoạn-Trường Tân-Thanh), NXB Sống
mới, Saigon, 1960 (in lần thứ ba).
2. Bùi Kỉ, Trần Trọng Kim hiệu khảo (1925), Truyện Thúy Kiều, Sách giáo khoa Tân Việt, 1968 (tái bản lần thứ 8).
3. Lê Thước (1942), “Cái tuổi của vài nhân vật chính trong Truyện Kiều”, Tri Tân, số 42, tr. 4+6.
4. Lê Văn Hòe (1952), Truyện Kiều chú giải, Quốc học thư xã, Hà Nội.
5. Nguyễn Hùng Vĩ (2012), “Đầu lòng hai ả tố nga”, http://khoavanhoc.edu.vn.
6. Nguyễn Tài Cẩn (2004), Tư liệu Truyện Kiều: Từ bản Duy Minh Thị đến bản Kiều Oánh Mậu, NXB Văn học, Hà Nội.
7. Nguyễn Tài Cẩn (2011), “Về chuyện tuổi tác ba chị em Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương Quan”, http://vanhoanghean.vn.
8. Nguyễn Văn Nho (1942), “Thúy Kiều Thúy Vân bao nhiêu tuổi?”, Tri Tân, số 45, tr. 4+9.
9. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu chú giải (1941), Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện, NXB Hương Sơn, Hà Nội, 1952 (tái bản).
10. Thế Anh (1999), Đoạn Trường Tân Thanh: Truyện Kiều đối chiếu Nôm – Quốc ngữ, NXB Văn học, Hà Nội.
11. Trần Nho Thìn (chủ biên), Nguyễn Tuấn Cường khảo dị, chú thích, bình luận (2007), Truyện Kiều (khảo – chú – bình), NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Bùi Kỉ, Trần Trọng Kim hiệu khảo (1925), Truyện Thúy Kiều, Sách giáo khoa Tân Việt, 1968 (tái bản lần thứ 8).
3. Lê Thước (1942), “Cái tuổi của vài nhân vật chính trong Truyện Kiều”, Tri Tân, số 42, tr. 4+6.
4. Lê Văn Hòe (1952), Truyện Kiều chú giải, Quốc học thư xã, Hà Nội.
5. Nguyễn Hùng Vĩ (2012), “Đầu lòng hai ả tố nga”, http://khoavanhoc.edu.vn.
6. Nguyễn Tài Cẩn (2004), Tư liệu Truyện Kiều: Từ bản Duy Minh Thị đến bản Kiều Oánh Mậu, NXB Văn học, Hà Nội.
7. Nguyễn Tài Cẩn (2011), “Về chuyện tuổi tác ba chị em Thúy Kiều, Thúy Vân, Vương Quan”, http://vanhoanghean.vn.
8. Nguyễn Văn Nho (1942), “Thúy Kiều Thúy Vân bao nhiêu tuổi?”, Tri Tân, số 45, tr. 4+9.
9. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu chú giải (1941), Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện, NXB Hương Sơn, Hà Nội, 1952 (tái bản).
10. Thế Anh (1999), Đoạn Trường Tân Thanh: Truyện Kiều đối chiếu Nôm – Quốc ngữ, NXB Văn học, Hà Nội.
11. Trần Nho Thìn (chủ biên), Nguyễn Tuấn Cường khảo dị, chú thích, bình luận (2007), Truyện Kiều (khảo – chú – bình), NXB Giáo dục, Hà Nội.
Nhận xét
Đăng nhận xét