NGÀY XUÂN NÓI CHUYỆN TUỒNG ĐỒ
NGÀY XUÂN
NÓI CHUYỆN TUỒNG ĐỒ
Hôm nào thư thả, thong thả, tìm
thử xem trong nhà có tập sách nào in lại các tuồng, chèo hay không?
Sở dĩ như thế, bởi đêm qua nằm đọc
lại Nội dung xã hội và mỹ học tuồng đồ (NXB Khoa học Xã hội - 1984) của Lê Ngọc
Cầu và Phan Ngọc mới biết rằng, đại khái, có hai loại tuồng căn bản: tuồng thầy
và tuồng đồ.
Sự
phân biệt ra sao?
Hiểu một cách nôm na, tuồng thầy
có nội dung, thể tài về đạo thờ vua, giúp nước, quốc sự trong triều, ngôn ngữ
trau chuốt điêu luyện…; trong khi đó, tuồng đồ lấy cảm hứng từ cuộc sống hằng
ngày, thiên về cái hài chứ không bi hùng như tuồng thầy, cách ăn nói mộc mạc,
bình dân, chỉ lưu hành trong dân gian, không "có cửa" chen vào chốn
cung đình đạo mạo… Có thể tạm gọi bên này, "văn chương bác học"; bên
kia, "văn chương bình dân".
Lâu nay, với y, một khi nói về
tuồng phải là ông Hoàng Châu Ký, thân phụ của nhà thơ Ý Nhi. Ông cùng con rể là
GS Nguyễn Lộc (chủ biên) và nhiều nhà nghiên cứu đã thực hiện Tự điển nghệ thuật
hát bội Việt Nam (NXB Khoa học Xã hội -1995) - một công trình rất giá trị.
Ngày đó, tác giả Người đàn bà ngồi
đan còn phụ trách NXB Hội Nhà văn ở phía Nam, y đến chơi, chị có tặng tập sách
này. Nhân đây nói luôn, việc NXB Hội Nhà văn mới đây tái bản 10 tác phẩm của
nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ, phải là một cố gắng của nhà thơ Ý Nhi.
Nhiều năm liền, chị đã tìm mọi
cách để sách có thể in lại sau năm 1975. Khi biên tập bộ sách này, nhờ đó, y mới
có thêm những hiểu biết về vốn từ miền Nam của thập niên 1950 mà chị Vũ đã sử dụng.
Đọc cũng là học. Học lấy tiếng Việt biết bao giờ mới có thể vỡ vạc ra đôi điều?
Y tự nhủ. Mà thôi chuyện này, bàn sau, không khéo lạc đề.
Ừ, tại sao gọi tuồng đồ?
Có phải các vở tuồng do các ông
thầy đồ sáng tác nên mới "chết tên" như vậy? Phỏng đoán mà chi, phải
nói có sách mách có chứng, thiên hạ mới tin. Thì đây, đêm qua gạch đậm dưới câu
này: "Trong khái niệm tuồng đồ, có người cho rằng "đồ" có nghĩa
là vẽ, là mạc theo nét có sẵn. Ngày xưa các thầy chữ Hán thường viết chữ mẫu
trên giấy riêng, để cho học trò phủ giấy mỏng lên, rồi nhìn những nét của chữ mẫu
hiện ra mà mạc lại. Như thế gọi là thầy dạy, trò đồ. "Đồ" cũng có
nghĩa là phỏng đoán (tôi đồ rằng ngày mai anh sẽ đến). Từ điển tiếng Việt cắt
nghĩa "đồ" là hấp chín bằng hơi nước như đồ xôi, đồ sắn. Với
cách hiểu đó, có người cho "tuồng đồ" là loại tuồng vẽ lại, mạc lại
những chuyện cũ, cũng có người cho là loại vở phỏng đoán, đồ chừng, chưa có gì
xác thực.
Vở
tuồng Đào Tam Xuân.
Giáo sư Huỳnh Lý và Hoàng Châu
Ký cho "tuồng đồ" là những vở thuộc loại đồ ngôn, đồ thuyết. Nhà văn
Đặng Thai Mai cho rằng chữ "đồ" còn bao hàm cái nghĩa là học trò, như
trong hai tiếng "sinh đồ" và "tuồng đồ" nghĩa là tuồng của
trò, để phân biệt tuồng của thầy, đó là loại chưa được xem là mẫu mực, là loại
quê mùa của dân gian.
Mới đây trong tập sách Hý trường
tùy bút mà Ty Văn hóa Nghĩa Bình xác định là của Đào Tấn, lại có định nghĩa
"đồ" là con đường. "Tuồng đồ" có nghĩa là loại vở dựa theo
con đường đã vạch sẵn của người xưa mà sáng tác ra" (SĐD, tr.30-31).
Rõ ràng có nhiều ý kiến
khác nhau, y có nghĩ gì khác không? Nào dám múa rìu qua mắt thợ, chỉ biết lắng
nghe, nói như người Quảng Nam hễ một khi thưởng thức món ăn nào ngon hết chỗ
chê, không chê vào đâu được thì chỉ còn có nước gật gù "ngậm mà
nghe".
Trong trường hợp này cũng thế, y
nào dám cãi gì. Chỉ xin ghi nhớ nằm lòng. Tuy nhiên, một trong những cái thú của
người đọc sách là thỉnh thoảng cao hứng cãi lại với tác giả. Có thế mới rộn
ràng trang sách, vui cùng chữ nghĩa.
Về từ "đồ" biết đâu
trong "tuồng đồ" lại hàm nghĩa khác? Nghĩa gì? "Sáng trăng em ngỡ
tối trời/ Em ngồi em để cái sự đời em ra/ Sự đời như cái lá đa/ Đen như mõm
chó, chém cha cái sự đời". Cái sự đời có nói văn vẻ, văn hoa cũng nhằm
tránh nói đến cái đồ đó thôi. Thử đọc lại một bài hát nói khuyết danh Diễu
thầy đồ Cổ Nhuế:
Thầy đồ Cổ là người tài bộ
Quẩy cầm thư đi giáo thụ phủ Vĩnh Tường
Trước nha môn thiết một học đường
Dạy dăm đứa chi hồ dã giả
Nhân lúc đồ ngồi nhàn hạ
Ra hồ sen xem ả hái hoa
Ả hớ hênh ả để đồ ra
Đồ trông thấy đồ ngâm ngay tức khắc:
"Phong tiền lạn mạn hoa sinh sắc!
Thuỷ diện vi mang bạng thổ thần"
Đồ ngâm rồi đồ đứng tần ngần
Đồ nọ tưởng đồ kia thêm thắc mắc
Suốt năm canh, đồ nằm biếng nhắp
Những mơ màng đồ nọ tưởng đồ kia
Đồ đâu gặp gỡ làm chi!...".
Quẩy cầm thư đi giáo thụ phủ Vĩnh Tường
Trước nha môn thiết một học đường
Dạy dăm đứa chi hồ dã giả
Nhân lúc đồ ngồi nhàn hạ
Ra hồ sen xem ả hái hoa
Ả hớ hênh ả để đồ ra
Đồ trông thấy đồ ngâm ngay tức khắc:
"Phong tiền lạn mạn hoa sinh sắc!
Thuỷ diện vi mang bạng thổ thần"
Đồ ngâm rồi đồ đứng tần ngần
Đồ nọ tưởng đồ kia thêm thắc mắc
Suốt năm canh, đồ nằm biếng nhắp
Những mơ màng đồ nọ tưởng đồ kia
Đồ đâu gặp gỡ làm chi!...".
Hai câu: "Phong tiền lạn
mạn hoa sinh sắc/ Thuỷ diện vi mang bạng thổ thần", có người dịch:
"Trước gió phất phơ hoa nẩy sắc/ Một dòng thấp thoáng hến thè
môi".
Hến là cái ngao, cái hĩm, là cái
đồ. Thế thì, một khi gọi tuồng đồ là cách gọi rẻ rúng của tầng lớp có học, sính
chữ nghĩa dành gọi các vở lưu truyền trong dân gian mà họ cho là ba lăng nhăng,
chẳng khác gì "Nôm na là cha mách qué".
Một khi nghe câu: "Đồ nhà
khó vừa nhọ vừa thâm" thì đồ này phải hiểu theo nghĩa trên, chứ không phải:
"1. Đồ vật do con người tạo ra để dùng hay làm thức ăn nói chung: đồ ăn thức
uống, đồ chơi, giặt bộ đồ; 2. Người theo học chữ Nho để thi cử: thầy đồ, cụ đồ;
Loại hay người đáng khinh (dùng để nguyền rủa, mắng nhiếc): đồ ngu, đồ hèn, đồ
mặt người dạ thú"- như Đại từ điển tiếng Việt đã phân loại, mà nó nằm ở
nghĩa "4. Âm hộ (dùng trong cách nói tục tĩu, chửi rủa".
Thế thì, các thứ tuồng đồ ấy
không thể diễn chốn cung đình cũng phải thôi. Tầng lớp trên "Cho là loại
tuồng ba lơn, chỉ có ích trong việc làm trò cười cho trẻ con, đàn bà"
(SĐD, tr.21).
Ai đời trước mặt các quan
"Trông lên mặt sắt đen sì" mà bọn đào, kép há mồm ra: "Để dạo
chơi phường phố/ Chở hàng hóa lên tàu/ Thiếu chi đĩ đĩ đào đào/ Biết mấy cờ cờ
bạc bạc" (Vở Giáp Kén Xã Nhộng). Chỉ có mà roi vụt nát mông. Hơn nữa,
tuồng đồ rặt tiếng cười. Không nghe câu nói vang bên tai, chỉ đọc là cười. Cách
viết khéo quá. Tố cáo xã hội khéo quá.
Chẳng hạn trong vở Ngao Sò Ốc Hến,
lão thầy bói Lữ Ngao bị Trùm Sò, Lý Hà cùm chân ở điếm canh, giao bọn tuần đinh
canh giữ. Lợi dụng lúc chúng ngủ say, Trần Ốc lẻn vào tháo cùm giải thoát cho
lão. Khổ thay, lão lại tưởng chúng thả cùm vì đuối lý, do đó, lão ứ chịu. Một
tình huống kịch cực hay. Lão thốt ra:
"A! A! Thầy biết rồi. Thằng
Trùm Sò mời thằng Lý Hà về uống rượu, rồi bàn bạc với nhau thấy bắt cùm thầy là
thất lý, mới cho người ra mở cùm cho thầy, để thầy đi đằng thầy cho trôi. Chớ
giải thầy lên quan thì phải tốn kém. Thầy dại gì cho bây mở cùm. Tao nằm đây,
con dòi to bằng cổ tay tao chưa về. Phen này Trùm Sò phải hết cửa hết nhà với
thầy cho coi. Bọn bây giải thầy lên quan, trước hết phải mua chai rượu làm lễ
ra mắt quan, quan huyện nhận chai rượu đó mới đưa vào trong cho bà huyện. Quan
mới xử lăng nhăng chi đó, rồi quan nạt, quan nộ, lão Trùm Sò phải lén ngõ sau
mua chai rượu của bà huyện, để thưa bẩm lần nữa.
Vậy là nay khai, mai báo, chai
rượu đó cứ luân hồi ngõ trước ngõ sau làm cho Trùm Sò phải hết nhà! Hết nhà! Hà
hà… Bây có khôn ra đây, thầy bày cho! Bay sắm khay trầu, cau rượu với chừng dăm
quan tiền thôi, bây thưa với mụ thầy là con vợ lão đây, nói khó với nó một tiếng,
nó qua nó nhận thầy về. Vậy mà chắc chi thầy đã về cho! Em chết rồi em Sò của
thầy ơi! Hà hà…".
Đọc xong và cười thích thú. Cực
hay. Không rõ, nhà văn Nguyễn Quang Sáng có xem tuồng Ngao Sò Ốc Hến? Trong
truyện ngắn Cây gậy ba số của ông, gói thuốc ba con 5 cũng đóng vai trò luân
chuyển như chai rượu của Trùm Sò. Lại nữa, hãy nghe thêm lời ca thán của người
đàn bà khi hay tin chồng tằng tịu, nhăng nhít mèo mỡ lăng nhăng.
Đọc qua một lần, tưởng chừng như
hiện ra trước mắt hình ảnh người đàn bà quẫn trí đang gào, đang thét, tiếng
kêu, tiếng rú quyện vào nhau, khi thở dài, lúc nộ khí xung thiên cực kỳ sống động.
Ấy là lúc nàng Phương Khanh trong vở Bình Hoài truyện nhận được tin chồng ngoài
biên ải đã lấy nữ tướng Phiên làm vợ.
Không biết trút giận vào đâu cho
đã máu ghen, nàng đã nhè đầu người đưa thư mà đấm, mà thoi, mà cấu, mà cào, mà
cắn, mà véo:
Nó chíu chít như mèo thấy mỡ
Tao bồn chồn như chó chạy khào
Điên! Điên! Điên!
Đào chỗ thấp, tấp chỗ cao!
Tệ! Tệ! Tệ!
Đặng buồng này, khoay buồng nọ
Nó, của lạ, nằm hoài trong trướng gấm
Tao, đồ quen, ngồi giữ xó vườn hoa
Xung! Xung! Xung!
Say máu ngà ngà
Sướng! Sướng! Sướng!
Múa mồm nguây nguẩy!
Mồ cha con đĩ! Con đĩ!
Lấy gạnh chồng tao! Chồng tao!
Đau! Đau! Đau!
Ngứa! Ngứa! Ngứa!
Tao bồn chồn như chó chạy khào
Điên! Điên! Điên!
Đào chỗ thấp, tấp chỗ cao!
Tệ! Tệ! Tệ!
Đặng buồng này, khoay buồng nọ
Nó, của lạ, nằm hoài trong trướng gấm
Tao, đồ quen, ngồi giữ xó vườn hoa
Xung! Xung! Xung!
Say máu ngà ngà
Sướng! Sướng! Sướng!
Múa mồm nguây nguẩy!
Mồ cha con đĩ! Con đĩ!
Lấy gạnh chồng tao! Chồng tao!
Đau! Đau! Đau!
Ngứa! Ngứa! Ngứa!
Một đoạn văn quá xuất sắc. Khó
thể viết hay hơn. Sinh động hơn. Thành ngữ có câu: "Đau đẻ, ngứa ghẻ, hờn
ghen" là vậy. Cách hờn ghen của cô nàng Phương Khanh là phổ biến theo kiểu
"người ta thường tình". Còn cách của Hoạn Thư lại khác hẳn. Cao cơ.
Kín đáo. Thâm trầm. Khiến Kim Trọng, Thúy Kiều phải tởn một phép. Lưu ý câu,
"Nó, của lạ/ Tao, đồ quen" thì "của"/ "đồ" cùng một
nghĩa. Từ "của" này đã từng xuất hiện trong câu đối của nhà nho Trần
Bình bỡn cô Tư Hồng: "Bốn chữ sắc phong hàm cụ lớn/ Ba thuyền tế độ của bà
to!".
Đem "hàm cụ lớn" đối
chan chát, đặt khít khìn khịt với "của bà to" thì “đểu” quá đi mất. Đấy,
tuồng đồ đấy. Tuyệt chưa? Vậy mà bấy lâu nay, y chẳng hề đọc lấy một vở nào. Tệ
quá.
Có thể nói, sự ra đời của tuồng
đồ, thơ ca hò vè châm biếm, đả kích dù xuất hiện ở thời nào cũng là cách lên tiếng
phản ứng, thái độ phản kháng của tầng lớp khố rách áo ôm đối với tầng lớp ăn
trên ngồi trốc.
Hoàn toàn đồng ý với nhà nghiên
cứu Lê Ngọc Cầu và Phan Ngọc rằng, dù quan niệm về tuồng đồ xưa nay (như trên
đã liệt kê) có khác nhau: "Nhưng lại nhất trí ở một điểm căn bản là tạo ra
một lá chắn, một tấm bình phong để đỡ đòn cho tác giả khi bị vua quan phong kiến
liệt vào loại tà ngôn, tà thuyết" (SĐD, tr. 31).
Lật lại quyển Tự điển nghệ
thuật hát bội Việt Nam do GS Nguyễn Lộc chủ biên, có đoạn: "Loại tuồng
đồ thường không có văn bản ghi chép, thường không có tên tác giả, mỗi lần diễn
người ta thường thêm thắt, nên các văn bản tuồng đồ được ghi chép về sau này
nhiều khi chúng rất khác xa nhau" (tr. 612).
Thay vì phải cắp vở vào trường đại
học ngồi học hết tiết này qua tiết nọ, chỉ chịu khó đọc những quyển sách nghiên
cứu về vấn đề đó, con người ta cũng có thể nắm bắt được nhiều kiến thức.
Lê Minh Quốc
Nhận xét
Đăng nhận xét