THƠ LÊ LỢI, KHÔNG PHẢI THƠ NGUYỄN TRÃI
THƠ LÊ LỢI,
KHÔNG PHẢI THƠ NGUYỄN TRÃI
(Trao đổi với ông Trần Đắc Thọ)
Bia
cổ Hào Tráng -Ảnh: Đỗ Doãn Hoàng
Chúng ta đều biết bài thơ khắc
trên bia đá Hào-Tráng (sông Đà) là của vua Lê Lợi, nhưng mới đây, theo phát hiện
của Trần Đắc Thọ, lại là của thi hào Nguyễn Trãi. Ông Thọ căn cứ vào câu “Hào
khí tảo không thiên chướng vụ” đã có trong bài thơ Quá Hải của
Nguyễn Trãi, lại còn thấy trong bài thơ Hào Tráng của Lê Lợi.
Ông Trần Đắc Thọ viết: “Đành
rằng trong cuộc sống có “những tâm hồn lớn” gặp nhau, nhưng người ta gặp nhau
trong ý nghĩa, tư tưởng mà không trong từng câu, từng chữ như thế này. Việc
Nguyễn Trãi sử dụng (lại) một câu thơ cũ của mình là một câu chuyện bình thường.
Nhưng Lê Lợi đường đường một đấng chí tôn lại làm một việc thiếu đường hoàng
như vậy thì không ổn. Thư tịch cổ thường hay tôn vinh cá nhân các vị đế vương.
Trong trường hợp này, thiết nghĩ cứ viết trung thực là Lê Lợi sai Nguyễn Trãi
làm thơ khắc vào vách đá núi để kỷ niệm chiến thắng”. (Tạp chí Hán Nôm số
(38) 1999.Tr.44)
Theo tôi, lập luận của ông Trần
Đắc Thọ trong bài “Thơ Lê Lợi hay là thơ Nguyễn Trãi” không thuyết
phục.
Cứ giả thiết Lê Lợi sai Nguyễn
Trãi làm hộ thơ cho mình. Nhưng liệu Nguyễn Trãi có dám dùng lại thơ cũ của
mình để ký tên bậc chí tôn vào đó ? Mà lại là thơ khắc trên vách đá, khi bị
phát hiện thì Nguyễn Trãi khó thoát khỏi tội tày đình này chăng?
Chỗ dựa duy nhất của ông Trần Đắc
Thọ là bài thơ Quá hải của Nguyễn Trãi. Ông Thọ viết rằng: bài thơ
này “các nhà nghiên cứu cho ông (Nguyễn Trãi) đã làm hồi ông theo cha là Nguyễn
Phi Khanh sang Trung Quốc khi cha ông bị giặc Minh bắt đi (1407)”.
Các nhà nghiên cứu nào tài đoán
mò như thế ? Quân Minh bắt giải về kinh đô Kim Lăng (Trung Quốc) hai vua Hồ và
một cận thần quan trọng như Nguyễn Phi Khanh, họ đi đường thuỷ hay đường bộ ?
Tài liệu nào ghi chép họ vượt qua biển Đông hay chỉ có chuyện Nguyễn Trãi tiễn
cha đến ải Nam quan rồi phải trở về? Chúng ta đọc lại hai câu kết bài
thơ “Quá hải” được ghi là của Nguyễn Trãi:
Biển chu tiễn ngã triều thiên khách
Trực giá kình nghê quá hải đông.
(Con thuyền nhỏ đưa ta làm khách
chầu thiên tử
Cưỡi cá kình cá nghê mà vượt biển
đông).
Thế là thơ nói về người đi sứ rồi
(triều thiên khách). Nguyễn Trãi chưa hề đi sứ, cũng không thể dễ dàng vượt biển
Đông đến Trung Quốc. Ông phải cải trang làm đầy tớ theo tiễn người cha mang tội
chống lại giặc Minh, dù đi đường biển cũng chẳng có được phong thái ung dung của
tác giả bài thơ Quá hải.
Lại xem thơ Đường luật, câu
“phá” không thể giống câu “luận”. Câu “Hào khí tảo không thiên chướng vụ” ở
vị trí câu “phá” của bài thơ Hào tráng thích hợp hơn ở vị trí câu “luận”
của bài thơ Quá hải. Giả sử Nguyễn Trãi có làm hộ thơ cho Lê Lợi, thì
sao một tài thơ như ông lại đem câu “luận” trong bài thơ của mình gán ghép vào
làm câu “phá” cho bài thơ Hào tráng ? Nguyễn Trãi mà kém cỏi đến
thế kia ư ?
Đến đây, ông Trần Đắc Thọ và bạn
đọc hẳn phải chất vấn tôi rằng: cho dù bài Quá hải khó tin của Nguyễn
Trãi, thì vấn đề khó hiểu của câu thơ “Hào khí tảo không thiên chướng vụ” vẫn
còn đó! Tôi xin trả lời: Bài Hào tráng đã khắc ghi rõ ràng trên vách
đá kèm ngày, tháng, năm cụ thể, còn bài Quá hải là thơ sưu tầm, không
những tam sao thất bản mà lầm lẫn đầu Ngô mình Sở cũng là chuyện thường thấy.
Khi bị hoạ tru di, thơ văn Nguyễn Trãi đều phải đem đốt hết, ai tàng trữ tất mắc
tội với triều đình. Ba mươi năm sau, Lê Thánh Tông khai phục chức tước cho Nguyễn
Trãi, sai người sưu tầm di cảo của ông thì không còn được mấy. Sau đó, chính tập
di cảo này cũng bị mất!
Gần 400 năm trôi qua, biết bao vật
đổi sao dời, ông Dương Bá Cung mới tiến hành sưu tầm lại thơ văn Nguyễn Trãi !
Trong bài tựa ở đầu bộ Ức Trai di tập, Dương Bá Cung viết: “Tôi thường
đã có đi từ Nam ra Bắc, gặp người nào hạng sĩ phu tôi liền dò hỏi xem
di cảo của Ức Trai tiên sinh có còn sót lại ở đâu không? Tôi
mong hoạ hoằn cũng có tìm được nhưng tiếc rằng sau khi binh lửa loạn ly, nhưng
tác phẩm ấy không còn tụ tập được mấy!” (nhóm Trần Văn Giáp dịch).
Chúng ta khâm phục sự kiên tâm bền
chí của Dương Bá Cung. Chúng ta cũng cảm ơn ông đã đem trả lại cho đời một tập
di cảo vô giá. Nhưng chúng ta không vì thế mà không cẩn thận khi sử dụng tài liệu.
Chính vì tinh thần khoa học, nhóm dịch thơ chữ Hán Nguyễn Trãi gồm các vị túc
nho: Phan Võ, Lê Thước, Đào Phương Bình(Viện văn học), trong số 105 bài đã
lọc ra 17 bài xếp vào phần “tồn nghi”, nghĩa là những bài mà các ông nghi ngờ
không phải thơ Nguyễn Trãi. Theo ý tôi, trong số những bài các cụ thận trọng xếp
vào “tồn nghi”, có những bài đã đủ sở cứ để khẳng định không phải là thơ Nguyễn
Trãi. Tôi xin lấy bài Lãnh noãn tịch làm ví dụ. Bài này có hai
câu kết:
Cao đường bất thất ôn lương hậu
Khước hận thần hôn định tĩnh thì!
(Cha mẹ không thiếu sự quạt nồng ấp
lạnh
Chỉ ân hận những khi sớm thăm tối
viếng mà thôi!
(Nhóm Phan Võ dịch)
Theo tiểu sử Nguyễn Trãi, ông
sinh năm 1380, bị mồ côi mẹ (bà Trần Thị Thái) khi chưa lên mười tuổi, nhưng
tác giả bài thơ lại còn đủ cả cha mẹ và hai cụ sống phong lưu, đầy đủ!
Bài Quá hải tuy không
bị nhóm dịch giả trên xếp vào loại “tồn nghi”, nhưng thực ra chúng ta đã đủ căn
cứ để tin rằng nó không phải là thơ Nguyễn Trãi. Bên cạnh đó, cũng còn ít bài nữa,
nếu chúng ta chưa có thể loại bỏ khỏi thơ chữ Hán Nguyễn Trãi một cách thẳng thừng
thì cũng nên đưa chúng sang phần “tồn nghi”. Ví dụ: Ký hữu (bài số
16), Ký cữu Dị Trai Trần Công (bài số 23), Loạn hậu cảm tác (bài
số 26), v.v… Tôi nghĩ 17 bài “tồn nghi” các cụ dịch giả đã đưa ra là xác đáng,
nhưng chưa đủ.
Tóm lại vấn đề văn bản thơ chữ
Hán Nguyễn Trãi không bình thường, đòi hỏi người nghiên cứu phải thận trọng với
tinh thần phê phán khoa học.
Trở lại bài thơ Quá hải mà
Trần Đắc Thọ đã dựa vào đó để đặt vấn đề “Thơ Lê Lợi hay thơ Nguyễn
Trãi” và sau đó khẳng định là thơ Nguyễn Trãi. Bây giờ chúng ta
không tin được bài Quá hải là thơ Nguyễn Trãi thì không có lý gì ông
lại là tác giả bài thơ Hào trángkhắc trên vách đá bên cạnh Thác Bờ. Quá
hải chẳng những không thể là thơ Nguyễn Trãi mà bản thân nó về phương diện
văn bản cũng có chỗ không thể chấp nhận được như đã trình bày ở trên.
Nhưng tại sao câu thơ Lê Lợi lại
thấy trong bài Qúa hải ? Vấn đề không có gì khó hiểu. Những câu thơ
hay như: “Hào khí tảo không thiên chướng vụ, Tráng tâm di tận vạn trùng
san” lại khắc ghi trên bia đá, bao giờ cũng được nhiều người biết đến và
nhớ thuộc. Lâu dần (trải qua gần 400 năm chứ ít đâu!) người ta quên tác giả,
quên cả xuất xứ, nên dễ đem gán ghép vào bài thơ khác rồi cung cấp cho người
sưu tầm (Dương Bá Cung). Đến như thơ cụ Nguyễn Khuyến với cụ Tú Xương cùng sống
ở thời kỳ cận đại vẫn bị lẫn lộn với nhau ở một số bài! Âu đó cũng là chuyện
thường tình khi thơ đi vào cuộc sống!
Cuối bài báo của mình, ông Trần
Đắc Thọ còn nhắc thêm 4 bài thơ Hạ tiệp của Nguyễn Trãi để chứng minh
cho lập luận của mình. Tôi cho rằng nhắc đến thơ Hạ tiệp của Nguyễn
Trãi tức là ông Trần Đắc Thọ đã tự bác bỏ mình rồi!
Chúng ta hãy đọc lại bài Hạ
tiệp thứ nhất để thấy câu 5 và câu 6:
Sơn thú dĩ văn thu Ngụy Bác
Thần khuê hựu kiến khắc Yên Nhiên
(Nghe tin lính đồn thú trên núi
thu hồi trấn Ngụy Bác- Lại trông thấy nhà vua cho khắc (công trạng) vào đá núi
Yên Nhiên- nhóm Phan Võ dịch).
Thế là Nguyễn Trãi tự nói rõ
mình không phải người trong cuộc mà chỉ được nghe, thấy những sự kiện
lịch sử: chiến công và thơ của Lê Lợi đã khắc lên núi đá ngay sau chiến thắng.
Trong lời “Tựa” khắc ở trên bài thơ, Lê Lợi nói rõ: “Ta đi đánh Cát Hãn về
qua đây, làm một bài thơ để bảo cho đời sau biết mưu kế giá ngự nhung địch;
nhung địch ở xa mặt người dạ thú, nếu có bội bạn, phải tiêu diệt ngay, mà
phương lược tiến đánh thì bắt đầu tiến quân từ hai trấn Thao Giang và Đà Giang
là hơn cả” (Phạm Trọng Điềm dịch). Trong bài thơ của mình, ông Trần Đắc Thọ,
tại sao không hề nhắc đến lời tựa này, hay là riêng lời tựa này ông công nhận của
Lê Lợi chứ không phải của Nguyễn Trãi?
Chắc các bạn cũng như tôi, chúng
ta không hề có ý “tôn vinh” vua Lê Lợi, anh hùng dân tộc là nhà thơ. Và bản
thân Lê Lợi cũng không có ý khoe văn chương chữ nghĩa. Nhưng đó là sự thật, Lê
Lợi có để lại hai bài thơ, không chép vào thư tịch, mà khắc trên vách núi đá với
mục đích chính trị và quân sự cụ thể. Dẫu thế nào thì sự thật ấy vẫn là sự thật
như núi sông ấy, muôn thuở không thể xoá đi trong lòng người dân nước Việt.
HOÀNG TUẤN PHỔ
(Bài đã công bố trên Báo Văn hoá Thông tin Thanh Hóa 26-8-1999)
http://tuancongthuphong.blogspot.com/2014/06/tho-le-loi-khong-phai-tho-nguyentrai.html
(Bài đã công bố trên Báo Văn hoá Thông tin Thanh Hóa 26-8-1999)
Nhận xét
Đăng nhận xét