PHÊ PHÁN Ở HAI QUYỂN SÁCH VỀ PHONG THỦY VIỆT NAM
NHỮNG ĐIỀU CẦN PHÊ PHÁN
Ở HAI QUYỂN SÁCH VỀ PHONG THỦY VIỆT NAM
Thị trường sách nước ta những
năm gần đây bày bán ê hề những ấn phẩm một thời bị xếp vào loại duy tâm, thần
bí, mê tín, dị đoan: tử vi, tướng số, bói toán, xem ngày tốt xấu, phong thủy...Cũng
có một ít “hàng thật”, đa số “hàng rởm”. Ví dụ sách Tìm hiểu phong thổ
học qua quan niệm triết Đông của Mộng Bình Sơn (2) hay sách Nghiên cứu
phong thủy và phong thủy Việt Nam dưới góc độ khoa học của Ngô Nguyên Phi
(1)...
Sách Tìm hiểu phong thổ học qua quan niệm triết Đông (280 trang, khổ 13x29) thuộc dạng biên khảo, không đề cập vấn đề phong tục và thổ ngơi của một địa phương mà lại xoay quanh chuyện phong thủy của hai thầy địa lý nổi tiếng trong dân gian: Cao Biền (người Tàu) và Tả Ao (người Việt).
Sách Tìm hiểu phong thổ học qua quan niệm triết Đông (280 trang, khổ 13x29) thuộc dạng biên khảo, không đề cập vấn đề phong tục và thổ ngơi của một địa phương mà lại xoay quanh chuyện phong thủy của hai thầy địa lý nổi tiếng trong dân gian: Cao Biền (người Tàu) và Tả Ao (người Việt).
Mộng Bình Sơn viết: “Cao Biền
là một nhân vật rất giỏi về khoa địa lý”, “đây không phải là truyền thuyết mà
là một dữ kiện lịch sử có ghi trong sử liệu” (2.tr27). Sự thật, Cao Biền
sinh ra trong gia đình nhiều đời làm tướng. Bản thân Cao Biền tinh thông võ nghệ,
ham đọc sách. Biền xuất thân coi giữ cấm binh, có công được phong làm Phòng ngự
sứ ở Trần Châu. Năm 864, quân Nam Chiếu đánh cướp Giao Châu (Việt Nam), Cao Biền
đang giữ chức Kiêu vệ tướng quân được vua Đường Ý tông sai sang Giao Châu dẹp
giặc. Hoàn toàn không phải vì ông ta giỏi phong thủy nên vua Đường Trung tông
sai sang Việt Nam để tìm long huyệt lớn kết phát tốt thì yểm phá, và lập bản tấu
trình về Tàu cho vua Đường biết, như Mộng Bình Sơn viết. Cao Biền giết hàng vạn
dân Nam Chiếu, thu lại Giao Châu, được vua Đường phong làm Tiết độ sứ Giao
Châu.
Năm 875, vua Đường gia phong Cao
Biền chức Kiểm hiệu Thượng thư hữu bộc xạ, gọi về Trung Quốc, sai làm Tiết độ sứ
nơi khác. Trong 13 năm ở Việt Nam, Cao Biền chuyên lo chính sự, đắp thành Đại
La, mở mang giao thông, đường thủy, giữ cho dân quận một cõi được yên. Chính sử
Trung Quốc cũng như Việt Nam không có dòng nào viết về tài phong thủy của Cao
Biền và nhiệm vụ nghiên cứu phong thủy mà vua Đường giao cho. Mộng Bình Sơn đã
lượm lặt những mẩu chuyện dân gian về Cao Biền rồi lại mập mờ nói là “dữ
kiện lịch sử có ghi trong sử liệu” để đánh lừa người đọc không có đủ điều
kiện khảo cứu sử sách.
Mộng Bình Sơn không hiểu hay cố
tình không hiểu việc dân gian nước ta hư cấu một Cao Biền có tài phong thủy với
dụng ý tố cáo âm mưu thâm độc của phong kiến xâm lược phương Bắc, đề cao khí
thiêng sông núi Việt Nam đã làm cho Cao Biền phải chịu thất bại thảm hại. Điều
này có thể thấy rõ trong hai quyển sách cổ: Việt điện u linh, Lĩnh Nam
chích quái có chép mấy mẩu chuyện về Cao Biền nhưng chỉ chứng tỏ ông là một
pháp sư phù thủy, không trừ thủ đoạn tàn bạo nào, để yểm trấn thần thiêng nước
ta, kết quả, Biền bị thần núi Tản Viên nhổ nước bọt mà bỏ đi !
Mộng Bình Sơn trong Tìm hiểu
phong thổ học qua quan niệm triết Đông, đặc biệt đề cao tập “Cao Biền
tấu thư địa lý kiểu tự”, xem là công trình lớn của Cao Biền khảo cứu về phong
thủy Việt Nam. Nhưng chúng ta có thể tin chắc cuốn sách nói trên của Cao Biền
do người đời sau biên soạn, mượn danh Cao Biền để lòe bịp thiên hạ. Chứng cứ là
những địa danh, tên những cuộc đất phong thủy trong cuốn sách, thời Cao Biền
chưa hề có. Ví dụ: Thanh Oai, Chương Đức, Sơn Minh,...
-Vùng đất Thanh Oai (Hà Tây) đời
Đường là Đỗ Động thuộc huyện Long Biên. Năm 966, sứ quân Đỗ Cảnh Thạc chiếm cứ
đất này. Đời Lý, Thanh Oai là tên một hương thuộc châu Quốc Oai. Thời Lê Thánh
tông, Thanh Oai là huyện thuộc phủ Ứng Hòa...
-Tên Chương Đức và đơn vị huyện
mang tên Chương Đức từ đời Trần trở về trước chưa có. Đời Lê Thánh tông mới đặt
huyện Chương Đức, lệ vào phủ Ứng Hòa, nay là huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây.
-Vùng đất Sơn Minh xưa là đất Đường
Lâm, thuộc Châu Phong cũ. Tên Sơn Minh xuất hiện đời Lý. Nhà Minh đổi làm Sơn Định.
Đời Lê Thánh tông lấy lại tên Sơn Minh thuộc phủ Ứng Hòa, sau là huyện Phúc Thọ,
tỉnh Hà Tây,...
Mộng Bình Sơn muốn chứng minh
sách Tấu thư địa lý cảo tựchính thực của Cao Biền lại bịa ra chuyện Thượng
thư Hoàng Phúc trong đội quân xâm lược nhà Minh, “rất giỏi về địa
lý” mang theo quyển Cao Biền tấu thư địa lý kiểu tự sang Việt
Nam để xét duyệt lại và tiếp tục hủy phá những cuộc đất có long huyệt lớn, nhằm
mục đích“tận diệt phong thổ Việt Nam”, và không cho phát sinh ra những bậc
vương tướng, những anh hùng yêu nước chống lại chính sách đô hộ của Trung Hoa
(2.tr.54). Hẳn Mộng Bình Sơn cũng biết rằng Thượng thư Hoàng Phúc phải “trói
mình nộp thân” (Bình Ngô đại cáo) cho nghĩa quân Lam Sơn, nếu không nhờ chính
sách khoan dung của Lê Thái tổ, liệu có thoát khỏi tội chết bỏ xác nơi đất Việt
?
Về nhân vật Tả Ao, Mộng Bình Sơn
viết: “Cuộc đời hoạt động của cụ Tả Ao về hai ngành y lý và địa lý cũng
không thấy một tài liệu nào lưu lại, chỉ thấy những mẩu chuyện vui cười về cụ Tả
Ao đi tầm long điểm huyệt trong dân gian do người đời sau sáng trước
tác (!) không có giá trị khảo cứu (!)...” (2.tr.65). Thế mà, Mộng
Bình Sơn, không rõ lại có tài liệu nào để căn cứ và đưa ra một bản “Thân
thế và tiểu sử của cụ Tả Ao” và khẳng định “thân thế và tiểu sử của cụ
Tả Ao lưu lại như vậy” !? (2.tr 56-62).
Sự thật, cái gọi là “thân
thế và tiểu sử về cụ Tả Ao” đó chỉ là một truyện kể dân gian trong “kho
tàng truyện cổ tích”. Chính Mộng Bình Sơn cũng tự mình mâu thuẫn với mình: ở
trang 57, ông khẳng định Thánh địa lý Tả Ao “sinh vào thời vua Lê chúa Trịnh”nhưng
đến trang 257, nói về thành nhà Hồ, ông lại viết: “Thành này do cụ Tả Ao
Nguyễn Đức Hiên tìm ra, dựa trên một cuộc đất phát vương, cuộc đất đó nằm trên phủ
Quảng Xương” ! Thế nhưng Quảng Xương là huyện và cách xa thành nhà Hồ, huyện
Vĩnh Lộc đến 60 km!)
Mộng Bình Sơn giới thiệu ba tập
sách quý của cụ Tả Ao: Địa lý Tả Ao toàn thư, Địa đạo diễn ca, Dã đàm Tả
Ao, cũng không có cơ sở nào để tin chắc do chính cụ Tả Ao Nguyễn Đức Hiên
soạn. Ngay cả quyển Địa lý Tả Ao chân truyền (khắc in năm 1919) cũng
không thể chắc là “chân truyền”. Nói riêng về Địa đạo diễn ca gồm 120
câu thơ Nôm, người viết trình độ rất kém và không có hơi hướng cổ văn. Cả “ba
tập sách quý” ấy thực chất chỉ là loại sách “vỡ lòng” của những người mới
theo học nghề phong thủy, do thầy địa lý hạng bét biên soạn.
Theo tôi, Tả Ao chỉ là cái tên
phiếm chỉ, mượn tên làng Tả Ao, xã Tả Ao (Hà Tĩnh) để chỉ về một ông tổ nghề địa
lý của làng Tả Ao. Trước năm 1945, trong nhân dân ta, các cụ vẫn truyền tụng thầy
địa lý Tả Ao giỏi phong thủy, cũng như thầy đồ Nghệ “hay chữ dữ đòn”. Thực tế
thầy địa lý Tả Ao không có ai là thánh sư, thầy đồ xứ Nghệ cũng chẳng có ai làm
đại sư hay thần tổ.
Mộng Bình Sơn soạn sách phong thủy
nhưng kiến văn rất lơ mơ về khoa phong thủy. Ông viết: “...Sách địa lý rất
hiếm, ngay ở trên đất Trung Hoa là nơi sáng tác ra nó cũng khó tìm” (2,
tr.20). Rồi ông đổ tội cho vua chúa Trung Quốc, nào là đốt sách chôn sống học
trò (Tần Thủy Hoàng) nào là hoàng tộc giữ độc quyền không cho phổ biến, đó là
những tội do Mộng Bình Sơn tưởng tượng. Nên biết, Tần Thủy Hoàng không đốt loại
sách bói toán và sách bói toán, tướng số phong thủy không hề hiếm ở Trung Quốc.
Ở Trung Quốc, qua các triều đại,
nhiều học giả công khai tranh luận về phong thủy và có lúc xã hội đầy rẫy yêu
ngôn, loạn thư. Đến đây, chúng ta có thể kết luận: Mộng Bình Sơn và
sách Tìm hiểu phong thổ học qua quan niệm triết Đông không hề có “triết
Đông” hay “triết Tây” gì cả. Thậm chí, cả cái mục “Đất nước Việt Nam, vùng
địa linh nhân kiệt”, Mộng Bình Sơn cũng chỉ tập hợp một ít tài liệu “hổ lốn”,
văn không ra văn, sử không ra sử. Ví dụ Mộng Bình Sơn viết về Thanh
Hóa: “Vị trí Thanh Hóa từ đời Lý Trần cho đến nay hình thể không thay đổi
mấy” (2, tr.258). Thế là Mộng Bình Sơn không đọc sử, hay có đọc mà không
nhớ?
Ông đã không hiểu về núi Chí
Linh, về Lam Sơn, nhưng cứ viết bừa rằng“Lam Sơn là nơi khởi nghĩa, nhưng ở đất
này cũng như ở một Lũng Nhai không có bài phú, bài văn nào của những tác giả
đương thời, riêng Chí Linh được hai bài phú, đủ biết Chí Linh quan trọng như thế
nào” (2, tr.260) (Tôi không dám viện dẫn dài dòng những tài liệu thơ văn
đương thời viết về Lam Sơn và Chí Linh sơn, xin bạn đọc giở lại Hoàng Việt
thi văn tuyển sẽ rõ).
Ngô Nguyên Phi với bộ
sách Nghiên cứu phong thủy và phong thủy Việt Nam dưới góc độ khoa học tỏ
ra “uyên bác” hơn Mộng Bình Sơn. Tiếc rằng phần lớn sách, Ngô Nguyên Phi không
làm việc “nghiên cứu phong thủy” mà chỉ tập hợp, in ra những tài liệu Dịch
học, Thiên văn lịch pháp, Độn giáp, Âm dương ngũ hành, La bàn, Lý khí, là
những nội dung từ lâu đã không còn xa lạ đối với bạn đọc Việt Nam.
Đáng chú ý nhất của bộ sách là vấn
đề Phong thủy Việt Nam dưới góc độ khoa học, cụ thể ở tập II, Ngô
Nguyên Phi bàn về“Phong thủy trên đất nước Việt Nam”. Hy vọng đây chính là
chỗ người viết sách có ít nhiều đầu tư nghiên cứu và tư duy sáng tạo. Nhưng Ngô
Nguyên Phi lại tỏ ra rất hời hợt, non kém, chẳng những ôm đồm, nhầm lẫn về tư
liệu mà con đưa ra những suy diễn hết sức chủ quan, nông cạn, những ý kiến kỳ lạ
đến kỳ quái !
Ví dụ: về thành nhà Hồ đã có nhiều
bài viết và công trình nghiên cứu nhưng Ngô Nguyên Phi cứ nhắm mắt viết bừa:
-“Thành tọa lạc ở động Ân Tôn
(?) xưa kia là các ấp Hoa Nhai, Tây Nhai, Phương Nhai, Đông Môn”. Xin hỏi:
Ân Tôn hay An Tôn ? Xưa kia là thời điểm nào, trước hay sau khi xây thành ? Tây
Nhai, Phương Nhai, Hoa Nhai là tên phố, sau khi xây thành mới mở phố xá để phục
vụ quý tộc, quan lại, binh lính. Còn địa danh Đông Môn cũng phải đến lúc nhà Hồ
sụp đổ mới xuất hiện ấp Đông Môn, rồi làng Đông Môn.
-Những địa danh soạn giả viết lầm
(khó đổ lỗi cho nhà in) thì nhiều lắm, như mô tả thành Tây Đô, soạn giả viết: “
Phía hữu thành có quận Hoàng Sách, ven bờ sông Mã chạy đến núi Ân Tôn (?) ở hướng
đông. Hai phí tả hữu đều dài vài vạn trượng” (1, tr.586-587).
Đọc đi đọc lại vẫn không hiểu ý
soạn giả muốn nói gì, tại sao động An Tôn hóa thành động Ân Tôn (chữ Ân Tôn nhắc
lại nhiều lần). Hay huyện Vĩnh Lộc (và cả tỉnh Thanh Hóa) làm gì có quận Hoàng
Sách ? Lại còn “tả hữu đều dài đến vài vạng trượng”là thế nào ? Tra tìm
các sách địa chí, thấy Đại Nam nhất thống chí phần tỉnh Thanh Hóa
(biên soạn đời Thành Thái-Duy Tân) chép câu ấy là: “Phía hữu từ tổng Quan Hoàng
huyện Cẩm Thủy, theo sông Mã đi sang phía đông, thẳng đến núi An tôn, bao la mấy
vạn trượng...”. Phải viết như thế mới đúng !
Nghiên cứu phong thủy thànhTây
Đô (thành nhà Hồ), Ngô Nguyên Phi viết: “Kể về địa thế thì có sông Bái ôm
phía đông, sông Mã ấp phía tây (?) lại có sông Lương hơi nhỏ chạy từ Ai Lao
sang thọc thẳng về hướng thành”. Về núi, “phía ngoài một lớp là Lôi
Dương, Đông Sơn, Nông Cống, Ngọc Sơn. Các dãy núi ấy vòng bọc bao quanh như triều
phục” ! (1,tr.587)
Thế là “nhà nghiên cứu phong thủy”
không cho sông Lương gặp sông Mã ở ngã ba Giàng, bắt phải “thọc thẳng về hướng
thành” ! Ông cũng thay quyền tạo hóa, bắt tất cả các thế núi, hướng núi thiên
hình vạn trạng ở tận Đông Sơn, Nông Cống, thậm chí ở xa như Ngọc Sơn-Tĩnh Gia
giáp Nghệ An, cách Vĩnh Lộc tới cả trăm cây số đều phải quay đầu triều phục
thành nhà Hồ ! Không thể tin nổi, Ngô Nguyên Phi còn liều mạng viết: “Đó
là Tây Đô, sử gọi là thành nhà Hồ, dựa trên một cuộc đất phát vương, cuộc đất
đó nằm trên phủ Quảng Xương” !?. Trong thực tế, Quảng Xương chưa bao giờ
là đơn vị “phủ” và nếu “cuộc đất phát vương”“nằm trên phủ Quảng
Xương” thì tại sao thành nhà Hồ lại “chạy về” huyện Vĩnh Lộc-nơi cách xa địa
danh Quảng Xương tới 60 km ?
Ngô Nguyên Phi viết tiếp về
“Cung sơn” và “Tiễn lộ”:
Khi thành xây xong, Trần Khát
Chân là “người tinh thông địa lý” không muốn cho đế nghiệp họ Hồ lâu
dài nên bày ra cách đắp một con đường ngay trước Cung Sơn chạy thẳng đến trước
Tây Đô như một mũi tên gọi là đường Tiễn lộ. Ngô Nguyên Phi phân tích:
-“Đứng về mặt phong thủy học nhận
xét thì tiệc làm “tiễn lộ” đó rất tệ hại”.
-“Trước nhất, mũi tên ấy thọc thẳng
ngay điện vua. Mũi tên lại đã được giăng sẵn rồi, chỉ cần bay ra thôi. Ý nghĩa
tượng trưng cho sự gấp gáp và nguy hiểm”.
-“Trong phong thủy học, một cuộc
đất kết phải có tiền Án, hậu Chẩm (trước án, sau gối): có Án sơn trước mặt thì
phía sau phải có Chẩm sơn mới đúng. Chẩm sơn đã có rồi thì cần gì phải tiễn lộ
nữa?” (1, tr.585-586).
Trước hết, cần phải nhấn mạnh
chuyện Trần Khát Chân đắp đường Hoa Nhai (tiễn lộ) chỉ là truyền thuyết dân
gian. Thành nhà Hồ là một đồ án hoành chỉnh do Thái sử Đỗ Tỉnh, một kiến trúc
sư có tài phục trách và trong chỉnh thể ấy không thể không có đường phố Hoa
Nhai. Đường Hoa Nhai là một trục dài thẳng, đoạn thứ nhất từ điện Hoàng Nguyên
(điện Kính Thiên không phải nơi vua ở) đến cửa Đoan Môn; đoạn thứ hai từ cửa
Đoan Môn đến thẳng đàn Nam Giao ở núi Đốn Sơn (tên núi Cung Sơn do thầy địa lý
đặt).
Hai bên đường này vốn là phố xá
và có nhiều đường ngõ hẹp cắt ngang. Vì vậy, nếu đường Hoa Nhai nếu là cái tên
(Tiễn Lộ) thì nó đã bị chặt đứt từng khúc. Mũi tên ấy không thể bắn thẳng đến tận
điện vua ở (điện vua Hồ ở phía sau điện Kính Thiên). Khoa phong thủy từ đời
Hán-Đường đã thịnh hành phép yểm trừ “quỷ môn”, “tử huyệt”. Giả sử Đốn Sơn là
hình cây cung, đường Hoa Nhai là mũi tên, thì Đỗ Tỉnh với chứ quan Thái sử lệnh
(coi thiên văn địa lý), khi dùng đường Hoa Nhai làm đường phố, xây đàn Nam Giao
ở Đốn Sơn (tình cờ hoặc hữu ý) đã dùng phép trấn trị (đàn Nam Giao thờ trời đất)
khiến cung tên hoàn toàn mất tác dụng.
Mặt khác, chúng ta cũng nên nhớ
rằng nhà Thượng tướng Trần Khát Chân ở trên núi Đốn Sơn (tức Cung Sơn) đáng nhẽ
phải vững như bàn thạch, thế mà nhà Hồ chưa đổ, ông đã bị chém rơi đầu tại
chính Đốn Sơn !? Tóm lại, chuyện Cung Sơn-Tiễn Lộ là truyền thuyết do dân gian
hư cấu, nói lên trí tưởng tượng phong phú của nhân dân ta xưa, nhằm ca ngợi Trần
Khát Chân, chê bai Hồ Quý Ly. Câu chuyện mang màu sắc phong thủy, hoàn toàn
không phải nhà Hồ đổ do tính quyết định về mặt phong thủy của Tây Đô. Chỉ có thầy
địa lý hạng bét mới tin rằng đó là câu chuyện thật, từng xảy ra trong lịch sử,
mới vận dụng nó để lòe bịp người dân thường.
Nhìn chung, Mộng Bình Sơn cũng
như Ngô Nguyên Phi đều chung một ngòi bút cẩu thả, thiếu trách nhiệm. Hai soạn
giả lại có một số trang giống nhau như in, khiến người đọc không khỏi thắc mắc,
không rõ ai “cóp” của ai, hay là họ tuy hai mà một, tuy một mà hai ? (Đề nghị bạn
đọc xem các trang từ 252 đến 260 của sách Tìm hiểu phong thổ học qua quan
niệm triết Đông và các trang từ 584 đến trang 591 của sách Nghiên cứu
phong thủy và phong thủy Việt Nam dưới góc độ khoa học. Đặc biệt, những
trang sách phụ lục “Bản mệnh tượng đối của cá nhân qua 12 con giáp”, chỉ
gây tác dụng xấu, vì đây là vấn đề rất nhạy cảm, khiến con người dễ mất đi niềm
tin vào chính bản thân mình, là chỗ dựa để bọn đồng cốt, bói toán nhảm nhí, tán
dóc kiếm ăn.
Gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
là giữ gìn tinh hoa văn hóa dân tộc, cố nhiên phải qua chọn lọc và phê phán.
Sách Tìm hiểu phong thổ học qua quan niệm triết Đông cũng như
sáchNghiên cứu phong thủy và phong thủy Việt Nam dưới góc độ khoa học (và
nhiều sách phong thủy khác) đã núp dưới chiêu bài triết lý, khoa học, bảo tồn
văn hóa để đánh lừa người đọc, truyền bá các ngón nghề thần bí, mên tín, cả môn
“coi đất” mà từ xưa nhân dân ta đã chế diễu: “Hòn đất mà biết nói năng...” !
HOÀNG TUẤN PHỔ
(Bài đã đăng trên Tạp
chí Văn Hóa dân gian-Viện nghiên cứu văn hóa dân gian-Viện khoa học xã hội
Việt Nam-số 4-2007)
Chú thích:
1.Ngô Nguyên Phi, Nghiên cứu
phong thủy và phong thủy Việt Nam dưới góc độ khoa học. NXB Văn hóa thông tin,
Hà Nội, 2002.
2. Mộng Bình Sơn, Tìm hiểu phong
thổ học qua quan niệm triết Đông, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002.
Nhận xét
Đăng nhận xét