“NGOÀI TRỜI CÒN CÓ TRỜI”
“NGOÀI TRỜI CÒN CÓ TRỜI”
Triệu Khuông Dẫn diệt nhà Hậu
Chu lập ra triều Bắc Tống năm 960, phải mất gần 20 năm mới ngồi yên ngôi bá chủ
Trung Quốc. Triệu Quang Nghĩa kế nghiệp anh, đang mưu tính mở rộng bờ cõi về
phương Nam, nghe tin Lê Hoàn xưng Hoàng đế. Mười đạo quân của Lê Hoàn, các binh
sĩ đều xăm trên trán ba chữ “Thiên tử quân”. Quang Nghĩa đùng đùng nổi giận xuống
chiếu phát 30 vạn binh mã (quân số hư trương) chia ba đường đánh lấy Đại Việt,
trừng phạt tội dám xưng “đế”, lại tự tôn là “thiên tử” ngang hàng vua Tống.
Đây là dịp tốt để sáp nhập đát
đai Nam Việt vào Trung Quốc. Năm 981, quân Tống bị nghiền nát ngay tại cửa
Hàm Quỷ, ải Chi Lăng. Thủy binh Tống, đạo quân Lưu Trừng tiến vào sông Bạch Đằng,
trong khi cánh quân Trần Khâm Tộ đã đến giang phận Tây Kết. Nghe tin đại tướng
Hầu Nhân Bảo đã bị chém rơi đầu, chúng đều rụng rời tay chân, quay thuyền tháo
chạy. Lê Hoàn sai Giang thuyền tướng quân Trần Ứng Long chỉ huy thủy binh truy
kích địch.
Thủy quân Trung Quốc rất mạnh. Từ
đời Tần Thủy Hoàng (250TCN) đã chế tạo được loại thuyền biển lớn, sai người đi
về phía đông tìm thuốc trường sinh ở các hải đảo. Nhiều đoàn người không trở về,
nghe nói vì họ chán ghét chế độ tàn bạo nhà Tần, thà ở lại nơi hoang đảo.
Cuộc xâm lược Việt Nam năm 981,
thủy binh Tống đều dùng thuyền gỗ lớn, đè sóng lướt gió băng băng. Trần Ứng
Long đem binh thuyền đón đánh địch ngay từ cửa Nam Triệu, nhưng thuyền nhỏ, lực
lượng mỏng không địch nổi thủy quân Tống, đành phải rút lui. Lưu Trừng sai tiền
quân nhổ hết những hàng cọc sót lại từ thời Ngô Quyền đánh giặc Nam Hán, để đại
binh tiến thẳng vào sông Bạch Đằng.
Trần Ứng Long vốn quê vùng đồng
chiêm trũng Ninh Bình. Nhà ông mấy đời làm nghề đan thuyền thúng dùng gặt hái,
bắc ốc trên đồng chiêm. Mỗi người một thuyền vừa chèo bơi, vừa lao động, rất tiện
lợi. Ứng Long cải tiến thuyền thúng bơi tay thành loại thuyền nan chống sào và
có mái chèo. Chỉ trong vòng nửa tháng, người dân quê ông đã đan xong mấy trăm
chiếc, xảm kỹ bằng vỏ cây sắn, nước không thể vào. Mỗi thuyền chở vài ba quân,
khi di chuyển, một người vác chạy băng băng. Lúc cần thiết lại có thể dùng thuyền
làm chiếc mộc lớn chống lại tên bắn, giáo đâm rất hiệu quả.
Hai bên bờ sông Bạch Đằng mọc
nhiều lau lách, cỏ rậm, thuyền nan nấp sẵn trong bụi chờ quân Tống đến lao vụt
ra, bất ngờ xông vào giữa đoàn thuyền địch. Thuyền nam khá nhẹ, len lỏi, né
tránh nhanh như sóc. Thuyền gỗ to nặng, tiến, lui, quay, trở khó, thành chậm chạp.
Những chiếc thuyền nan bị thủng lại hóa thành chỗ ẩn nấp để thủy quân ta tiếp tục
chiến đấu. Trong đánh giáp lá cà, những sào chống, bai chèo đều là vũ khí lợi hại.(1) Lưu
Trừng bối rối, tiến thoái lưỡng nan, đành cho thuyền co cụm lại, tạm đóng trên
khúc sông Phả Lễ gần thượng lưu Bạch Đằng.
Trong khi đó đoàn thuyền Trần
Khâm Tộ theo cửa sông Cái vào đến Tây Kết (Khoái Châu) thì dừng lại chờ tin Lưu
Trừng để cùng phối hợp chiến đấu. Tin tức Hầu Nhân Bảo bị đánh tan cả
đoàn quân cả mấy chục vạn không còn mảnh giáp, Lưu Trừng, Trần Khâm Tộ đều quay
đầu chạy trước. Lê Hoàn sai dùng thuyền nhẹ truy kích địch đến tận cửa biển, bắt
sống hai tướng giặc Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân. Về cuộc chiến đánh bại
quân Tống xâm lược năm 981, đại sử gia Lê Văn Hưu viết: “Lê Đại hành giết Đinh
Điền, bắt Nguyễn Bặc, bắt Quân Biện, Phụng Huân, dễ như lừa trẻ con, như sai nô
lệ, chưa đầy vài năm mà cõi bờ yên tĩnh, cái công đánh lấy tuy nhà Hán nhà Đường
(hai đời cường thịnh nhất thời phong kiến Trung Quốc) cũng không hơn được.”
Triệu Quang Nghĩa (Tống Thái
tông) bị đau hơn hoạn, sai giết hết bọn tướng bại trận chạy trốn về nước !
Nhưng không dám đánh báo thù Đại Việt, vì triều Tống biết rõ, đánh nữa càng
thua đau hơn ! Lê Hoàn tuy không sợ quân Tống, nhưng ông cũng như các vị quân
sư Khuông Việt, Đỗ Thuận đều không muốn chiến tranh, chỉ mong hai nước Trung
Hoa-Đại Việt đời đời hòa hảo.
Năm 987, nhà Tống lại sai Lý
Giác làm sứ giả sang Đại Việt. Lý Giác hay chữ nổi tiếng, là Quốc tử giám bác
sĩ, vua Tống biết Lê Hoàn có tài ăn nói, mà triều đình cũng lắm người giỏi văn
chương nên không thể sai những sứ giả không xứng đáng. Lê Hoàn bảo nhà sư Đỗ
Thuận làm lái đò đi đón sử giả. Lý Giác tính hay nói văn thơ, nhân thấy một đôi
ngỗng trời đang bơi trên sông, chợt nhớ bài thơ nổi tiếng đời Đường của Lạc Tân
Vương, cao hứng, hắng giọng ngâm:
Nga ! Nga ! lưỡng nga nga !
Ngưỡng diện hướng thiên nha
(Ngỗng ! Ngỗng ! Ngỗng một đôi
Ngẩng mặt ngóng chân trời)
Lý Giác mới ngâm được hai câu,
chưa biết nên chăng thế nào, dừng lại ngắm đôi ngỗng. Đỗ Thuận cầm mái chèo
khua mạnh một cái rồi ngâm tiếp:
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba
(Nước biếc phô lông trắng
Chèo hồng sóng xanh bơi)
Lý Giác giật mình kinh sợ, không
ngờ một người lái đò nước Nam cũng thông thạo văn thơ đến thế.
Bài thơ “Vịnh Ngỗng" của Lạc
Tân Vương nguyên tác 4 câu:
Nga! Nga! Nga!
Khúc hạng hướng thiên ca
Bạch mao phù thủy lục
Hồng chưởng bãi thanh ba.
(Ngỗng ! Ngỗng ! Ngỗng!
Cong cổ ngóng trời kêu
Lông trắng nổi trên mặt nước
Bàn chân hồng khua sóng xanh.)
Bởi trước mắt Lý Giác chỉ có hai
con ngỗng, và hai con ngỗng ấy ngóng trông về phía chân trời xa chứ không ngẩng
lên trời kêu, ông thêm và chữa mấy chữ để hợp cảnh hợp tình, là chuyện
thường thấy ở người xưa yêu thích thơ văn của nhà thơ nổi danh như Lạc Tân
Vương. Ông chưa biết nên sửa tiếp như thế nào, Đỗ Thuận đã đỡ lời ông, thay bằng
mấy chữ rất tài tình. Bài thơ“Vịnh Ngỗng” Lạc Tân Vương làm năm mới 10 tuổi,
thực ra chưa phải đã thật toàn bích. Đỗ Thuận thay chữ “phù” là nổi bằng
chữ “phô” là khoe, thay chữ “hồng chưởng” là bàn
chân hồng bằng chữ “hồng trạo” là mái chèo hồng làm
cho câu thơ trở nên tuyệt cú ! Ở đây không hề có chuyện Lý Giác và Đỗ Thuận “đạo”
thơ Lạc Tân Vương, mà chỉ là câu chuyện vui về thơ, vì bài“Vịnh Ngỗng” của
Lạc Tân Vương đã quá nổi tiếng, mấy ai không biết.
Lý Giác dù sau đó biết Đỗ Thuận
chỉ đóng vai ông lái đò, vẫn rất khâm phục nhà sư. Lý Giác về đến sứ quán, gửi
cho Đỗ Thuận một bài thơ:
Hạnh ngộ minh thì tán thịnh du,
Nhất thân nhị độ sứ Giao Châu.
Đông đô lưỡng biệt tâm vưu luyến
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu.
Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch
Xa tri thanh chướng phiếm trường lưu
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu
Khê đàm ba tĩnh kiến thiềm thu.
(May gặp thời bình được giúp mưu
Một lần hai lượt sứ Giao Châu
Đông đô mấy độ còn lưu luyến
Nam Việt nghìn trùng vẫn ước cầu
Ngựa vượt khói mây xuyên đá chởm
Xe qua rừng biếc vượt dòng sâu
Ngoài trời lại có trời soi nữa
Sóng lặng khe đầm, bóng nguyệt thâu.
Bản dịch Đại Việt sử ký
toàn thư)
Đỗ Thuận đem bài thơ Lý Giác
dâng vua Lê Hoàn. Vua cho gọi Đại sư Khuông Việt xem. Sư Khuông Việt
nói: “Thơ này có ý tôn trọng bệ hạ không khác gì vua Tống”. Lê Hoàn
khen ý thơ, đặc biệt câu: “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu” nghĩa
là: Ngoài trời lại có trời nên soi sáng xa...tặng cho các thứ rất hậu. Khi Lý
Giác từ biệt ra về, vua sai Khuông Việt làm bài hát để tiễn chân. Lý Giác lậy tạ
trở về Trung Quốc.
Theo sách “Thơ văn Lý Trần
tập I” (NXB Khoa học xã hội-Hà Nội 1977) của Viện văn học: “Theo ý kiến
giáo sư Đặng Thai Mai thì hai câu cuối cùng, ngoài nghĩa xưa nay vẫn hiểu là có
ý thừa nhận vị trí độc lập của nước Đại Việt và ngôi thiên tử của vua Lê Đại
hành (Lê Hoàn) ra còn có thể mang một nghĩa bóng không đẹp đẽ. Và đó chính là
thâm ý của viên sứ giả phương Bắc.”
Tôi, người viết bài này thiển
nghĩ: Giáo sư Đặng Thai Mai, nhà nghiên cứu cổ văn uy tín, nhà Hán học uyên
bác, ông rất “thâm nho” nên không lạ gì cái “thâm nho” của nhà nho Trung Quốc
và người Trung Quốc nói chung. Chúng ta cần cảnh giác khi tiếp cận loại văn bản
của họ, nhất là thơ văn thường “ý tại ngôn ngoại”. Tuy nhiên, với bài thơ Lý
Giác tôi thấy viên Quốc tử giám bác sĩ họ Lý đã bày tỏ tấm lòng thành thực,
hoàn toàn không có dụng ý xấu, xỏ xiên, bóng gió:
Đông đô lưỡng biệt tâm vưu luyến,
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu.
(Hai lần từ biệt Đông đô, lòng càng lưu luyến. Đất Nam Việt xa xôi
nghìn trùng [tôi] vẫn ngóng trông hoài)
Thiên triều Trung Quốc dù bị
đánh cho vỡ mật bay hồn, vẫn cậy nước lớn, mỗi lần sai sứ mang chế sách sang
phong, trong đó nội dung hết sức ngang ngược, Lê Hoàn đều nhận chiếu rất cung
kính nhưng không bao giờ lậy (vọng bái thiên tử), có ý không công nhận vai trò
Thiên triều, quyền uy thiên tử. Những sứ giả trí thức Trung Quốc như Lý Nhược
Chuyết, Lý Giác, Tống Cảo, Vương Thế Tắc,...đều lấy “lễ” làm đầu, không dám xấc
láo, nhũng nhiễu hay hạch sách việc nhận chiếu không đúng quy định thiên triều.(2)
Bài thơ Lý Giác, đặc biệt nhất
câu kết:
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu
Thì 4 chữ “Thiên ngoại hữu
thiên” vốn là câu thành ngữ rất phổ biến của nhân dân Trung Quốc, tương tự
câu thành ngữ Việt Nam: Ngoài núi này cao còn núi khác cao
hơn(3). Hoàn toàn không có ý Đại Việt là bầu trời nhỏ trong bầu trời lớn
Trung Quốc. Sứ giả Trung Quốc cũng như nhà Tống (và Nguyên, Minh, Thanh sau
này) đều biết khá rõ Lê Hoàn chẳng những xưng “Đế” mà còn dám ngang nhiên tuyên
bố mình là “Thiên tử” chẳng kém gì Thiên tử nhà Tống. Việc vua Lê nhận chiếu
nhưng không lậy là một sách lược ngoại giao khôn khéo để tránh gây căng thẳng
quan hệ hai nước tới mức đối đầu. Với câu thơ “Thiên ngoại hữu
thiên” (Ngoài trời này còn có trời khác) Lý Giác đã dám nói lên một sự thật
hiển hiên như quy luật của thiên địa, nhân sinh mà thôi.
HTP-30/6/2014
HUỲNH TUẤN PHỒ
HUỲNH TUẤN PHỒ
---------------------------
Chú giải:
(1)- Đây chính là nghệ thuật chiến
tranh “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”, sự dũng cảm mưu trí của dân tộc
Việt Nam trong suốt mấy ngàn năm lịch sử giữ nước.
(2)-Sở dĩ trí thức “Thiên triều”
thể hiện sự tôn trọng này là xuất phát từ thực lực sức mạnh của Đại Việt dưới
tài chỉ huy của Lê Hoàn khiến quân Tống bao phen phải kinh hồn bạt vía.
(3)-Trung Quốc còn có các dị bản
như: 人外有人 (Nhân ngoại hữu nhân-Ngoài người
này còn có người khác,) 山外有山 (Sơn ngoại hữu
sơn-Ngoài núi này còn có núi khác)峰外有峰 (Phong ngoại
hữu phong-Ngoài đỉnh núi này còn có đỉnh núi khác)...được dùng với ý: Không
có cái nào là nhất (tận thiện, tận mỹ). Cái này đã tốt, còn có cái khác tốt
hơn; người này đã giỏi còn có người khác giỏi hơn. Đó là nhận thức về thế giới
vô cùng vô tận.(Chú giải của Hoàng Tuấn Công)
Nhận xét
Đăng nhận xét