TỪ BẢN ĐỀ CƯƠNG ĐỔI MỚI KHÔNG ĐƯỢC LỰA CHỌN CỦA TBT LÊ DUẪN
ĐÊM TRƯỚC ĐỔI MỚI:
TỪ BẢN ĐỀ CƯƠNG ĐỔI MỚI KHÔNG ĐƯỢC LỰA CHỌN CỦA TBT LÊ DUẪN
Năm 1975, khi chuẩn bị đề cương cho Hội nghị TW lần thứ 24, Tổng Bí thư
(TBT) Lê Duẩn đã ấp ủ những cải cách kinh tế mạnh mẽ: Ủng hộ nền kinh tế nhiều
thành phần, không đưa mô hình kinh tế ở miền Bắc vào miền Nam... Nhưng cuối
cùng, đường lối của Đại hội IV (1976) lại khác hoàn toàn với bản dự thảo đó,
công cuộc Đổi Mới đã chậm lại 10 năm…01
BẢN ĐỀ CƯƠNG ĐỘT PHÁ
Khi đặt bút viết trong cuốn "Lê Duẩn - Một nhà lãnh đạo lỗi lạc, một tư duy sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam" (Hồi ký) - NXB Chính trị Quốc gia - 2002, ông Võ Văn Kiệt từng kể rằng, vào năm 1975, sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, ông Lê Duẩn vào Nam. Trong cuộc gặp đó, ông Lê Duẩn đã chia sẻ những dự định, ấp ủ của mình với việc thực hiện những cải cách về kinh tế. Ông Võ Văn Kiệt nói: "Khi đó anh Ba nói tới sự cần thiết phải duy trì nhiều thành phần kinh tế ở miền Nam, không thực hiện hợp tác hóa nông nghiệp như miền Bắc, coi trọng vai trò của trung nông. Nó rất gần với những chính sách trong Đổi Mới của chúng ta sau này…".
02
ĐIỀU ÔNG 6 DÂN HỐI TIẾC VÀ RÀO CẢN TỪ TÌNH BẠN
Rất nhiều người đã đặt câu hỏi: Tại sao TBT Lê Duẩn - nhà lãnh đạo có vị trí hàng đầu trong Đảng và có uy tín lớn nhất lúc đó lại không thể thực hiện được những tư tưởng đổi mới về kinh tế của mình ngay từ thời điểm đó?
GS Trần Phương, nguyên Phó Thủ tướng, một trong những trợ lý kinh tế thân
cận nhất của TBT Lê Duẩn nhớ lại, vào một buổi sáng, khi nhóm trợ lý đang họp,
TBT Lê Duẩn "đi vào "quẳng" xuống bàn chúng tôi một tờ báo và
nói: "Các anh đọc đi!". Rồi anh nhếch mép cười, đi ra... Chúng tôi cầm
tờ báo lên: Trên trang nhất là một bài dài phê phán anh Kim Ngọc và quan điểm
khoán hộ của anh. Có lần, tôi hỏi Anh: "Tại sao Anh không công khai phản
bác lại quan điểm bảo thủ của bài báo...". Anh nói: "Quan trọng nhất
là phải giữ sự đoàn kết trong Đảng...".
TS Lê Kiên Thành (con trai cố TBT Lê Duẩn) nhớ lại: "Có lần tôi hỏi
ba tôi về chuyện này, ông trầm ngâm: Không phải điều gì mình muốn thực hiện
cũng có thể thực hiện được ngay. Trong chiến tranh, có rất nhiều người, nhiều
phía đã phải nhượng bộ trước quyết tâm giải phóng miền Nam của ba, nên cũng sẽ
có lúc, ba phải nhượng bộ lại ở những điểm khác để không làm mất đi sự đoàn kết
và hòa khí trong Đảng".
Những năm sau giải phóng là một giai đoạn vô cùng khó khăn với Việt Nam,
khi mà quan hệ với Trung Quốc đi vào khúc quanh ngặt nghèo, Việt Nam mất đi nguồn
viện trợ từ nước láng giềng, sau đó là chiến tranh ở hai đầu đất nước.
Vào thời điểm phải đối mặt cùng lúc với hai cuộc Chiến tranh Biên giới
phía Bắc và Chiến tranh Biên giới Tây Nam, cùng với lệnh cấm vận kinh tế của Mỹ,
Việt Nam đã gia nhập khối SEV.
Khi trở thành thành viên của SEV, Việt Nam nhận được nhiều sự viện trợ về
kinh tế và quân sự của Liên Xô và các nước Đông Âu. Bên cạnh khoản viện trợ
quân sự lên tới cả tỷ USD, Liên Xô còn giúp Việt Nam xây dựng công trình thủy
điện, khai thác dầu khí, các công trình giao thông lớn, toàn bộ các cơ sở công
nghiệp, chuyển giao kỹ thuật cũng như đào tạo chuyên gia. Nhưng bên cạnh mối
quan hệ đồng minh và sự trợ giúp đó, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng về tư duy
kinh tế bao cấp.
Trong hệ thống các nước XHCN ngày đó, Nam Tư được coi như một "trường
hợp cá biệt". Nam Tư chính là nước XHCN đầu tiên mạnh dạn có những cải
cách về chính trị và kinh tế ngay từ những năm 1950: Ủng hộ thị trường tự do,
xây dựng mô hình Chủ nghĩa Xã hội Thị trường, mở cửa với các nước tư bản phương
Tây, có xu hướng cách biệt dần với Liên Xô và bị lên án gay gắt nhiều năm vì
phá hoại mô hình XHCN.
Trong cuốn "Lê Duẩn - Một nhà lãnh đạo lỗi lạc, một tư duy sáng tạo
lớn của cách mạng Việt Nam", ông Sáu Dân kể: "Khi đó, những cách làm
khác so với "tư duy chính thống" đều bị quy kết nặng nề. Một số cơ sở công nghiệp của TPHCM mới chỉ có
những sáng kiến gọi là "cởi trói", "tự tháo gỡ", tuy không
thấm tháp gì so với yêu cầu, mà đã có đồng chí nhận xét: "Bước xuống sân
bay Tân Sơn Nhất là đã thấy mùi Nam Tư".
Những năm này, các đoàn chuyên gia Liên Xô sang giúp Việt Nam có không ít
những chuyên gia đến từ các cơ quan Chính phủ. Họ theo dõi rất sát những thay đổi
trong tư duy và chính sách của Việt Nam.
TS Lê Kiên Thành kể, có một lần, khi ông Lê Duẩn sang Liên Xô vào đầu những
năm 1980, một nhà lãnh đạo Liên Xô đã có phần trao đổi thẳng thắn khi biết nhiều
nhà máy ở Việt Nam đang sản xuất và vận hành một phần theo cơ chế thị trường,
mà không theo giá do Ủy ban Vật giá Nhà nước quy định và quy kết đó là dấu hiệu
của tư bản.
Ông Ba Duẩn đáp lại: "Thưa Đồng chí, những nhà máy đó của chúng tôi
buộc phải mua nguyên liệu đầu vào với giá cao, nếu các đồng chí buộc họ bán
theo giá nhà nước quy định, thì sẽ giết chết nền sản xuất của chúng tôi".
Đó chỉ là một trong rất nhiều cuộc trao đổi gay gắt mà ông Ba Duẩn phải đối mặt
cho mỗi sự thay đổi mà nước bạn lo ngại có thể khiến Việt Nam đi lệch khỏi quỹ
đạo chung của khối các nước Xã hội Chủ nghĩa.
Những áp lực, thách thức đến từ nhiều phía đã khiến các nhà lãnh đạo Việt
Nam không thể tiến hành những cải cách mạnh dạn về kinh tế ngay sau ngày đất nước
thống nhất. Đó cũng là điều mà ông Sáu Dân luôn tiếc nuối - như chính ông đã viết
trong cuốn sách kể trên: "Ước gì Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) chỉ được một
phần của Đại hội Đảng VI (1986) thì đất nước ta đã khác nhiều so với hiện
nay".
03
DỰ BÁO CỦA ĐẠI TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH VÀ ÔNG 6 DÂN ĐI “BUÔN GẠO”
Nhưng đó là thời điểm mà sự thay đổi sẽ quyết định sự tồn vong của chế độ.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh - Nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kể lại:
"Những năm 1980, vào thời điểm mà tôi vẫn nghĩ Liên Xô là một tượng đài, một
hôm Đại tướng Lê Đức Anh gọi tôi đến và giao cho tôi một nhiệm vụ: Cậu hãy tìm
hiểu và phân tích xem bao giờ Liên Xô sẽ sụp đổ và kịch bản sự sụp đổ đó sẽ diễn
ra như thế nào". Tướng Nguyễn Chí Vịnh thừa nhận, đó là một mệnh lệnh khiến
ông không khỏi bất ngờ. Vì cho đến thời điểm đó, những người như ông vẫn nhìn
Liên Xô như ngọn cờ đầu không thể sụp đổ của các nước XHCN.
Không chỉ riêng mình ông Lê Đức Anh nhận ra điều đó. Những bất ổn về kinh
tế dẫn đến bất ổn về chính trị ở Liên Xô, cùng với hiện thực không hề dễ dàng của
kinh tế Việt Nam trong những năm sau giải phóng, đã khiến những nhà lãnh đạo Việt
Nam hiểu rằng phải thay đổi.
Vì thế, dù công cuộc Đổi Mới của Việt Nam chỉ chính thức bắt đầu từ ĐH
VI, nhưng trên thực tế, những mầm mống của Đổi Mới đã bắt đầu được gieo mầm từ
những năm trước đó, ở chính những nhà lãnh đạo vốn từng được cho là
"nguyên tắc nhất".
Sau ngày đất nước thống nhất, ông Võ Văn Kiệt, tức Sáu Dân - Ủy viên dự
khuyết Bộ Chính trị khóa đầu tiên sau khi đất nước thống nhất - đã trải qua những
ngày tháng không hề dễ dàng trên cương vị Bí thư Thành ủy TPHCM. Đỉnh điểm của
những khó khăn ấy có lẽ là vào năm 1979, khi 3,5 triệu dân TPHCM đứng trước
nguy cơ nạn đói cận kề. Khó khăn đến mức, đã có những trí thức, quan chức của
chính quyền Việt Nam Cộng hòa vốn lựa chọn ở lại để xây dựng đất nước cũng nản
lòng với hoàn cảnh sống khi ấy và ấp ủ ý định ly hương. Khi biết chuyện, Bí thư
Thành ủy Sáu Dân đã tổ chức một cuộc gặp những trí thức ấy và đưa ra lời cam kết
của mình: "Các anh cố gắng ở lại. Trong vòng 3 năm nữa, nếu tình hình
không thay đổi, tôi sẽ tự mình tiễn các anh lên máy bay".
Ông Lữ Minh Châu (nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) từng kể: "Năm
1979 là năm TPHCM thiếu lương thực. Toàn bộ lương thực của cả thành phố khi ấy
chỉ còn đủ ăn trong vài ngày. Trong khi các tỉnh ĐBSCL đang ê hề lúa gạo, thì
người dân TPHCM lại không có cách nào mua được lương thực dù có tiền và sẵn
sàng mua với giá cao. Nguyên nhân là vì giá gạo do Ủy ban Vật giá quy định quá
thấp, chỉ bằng 1/5 giá chợ đen, nên nông dân ĐBSCL không chịu bán. Còn Sở Lương
thực các địa phương thì không được phép tự thu mua và định giá lương thực.
Vào thời điểm "nước sôi lửa bỏng" nhất, ông Sáu Dân đã gọi bà
Ba Thi - Giám đốc (GĐ) Công ty Lương thực thành phố, ông Lữ Minh Châu, ông Năm Ẩn
- Giám đốc Sở Tài chính và ông Năm Cam - Chánh Văn phòng Thành ủy, đến để tìm
cách tháo gỡ vấn đề.
Sau cuộc họp riêng tại nhà ông Sáu Dân, "tổ thu mua gạo" của
Thành ủy TPHCM đã được lập ra, trong đó bà Ba Thi phụ trách nhiệm vụ xuống các
tỉnh ĐBSCL mua gạo, ông Lữ Minh Châu lo cấp tiền, ông Năm Ẩn phụ trách giấy tờ
thu chi. Ngày hôm sau, mọi việc lập tức được triển khai. Bà Ba Thi xuống các tỉnh
ĐBSCL mua gạo với giá thị trường, rồi mang về bán cho người dân TPHCM theo giá
thỏa thuận. Mọi nguy cơ của TPHCM được giải quyết chỉ trong vài ngày.
Ông Lữ Minh Châu kể: "Chúng tôi tự gọi đùa mình là "tổ buôn lậu
gạo của Thành ủy". Lúc mới nhận nhiệm vụ, chúng tôi lo lắng lắm, vì ai
cũng hiểu đây là xé rào, đây là trái với chỉ đạo của Trung ương. Chị Ba Thi nói
với anh Sáu Dân: Nếu như Trung ương biết chuyện này, thì chúng ta đều phải đi
tù. Nhưng anh Sáu Dân trịnh trọng hứa: Nếu vì việc này mà phải đi tù, thì tôi sẽ
mang cơm thăm nuôi các anh các chị. Anh Sáu Dân căn vặn: Một là để dân đói, các
đồng chí giữ nguyên chức vụ. Hai là để dân no, các đồng chí mất chức. Các đồng
chí sẽ chọn cái nào?".
Cuối cùng, tất cả họ đều chọn đáp án thứ 2: Cùng nhau đánh cược vận mệnh
chính trị của mình để mấy triệu người dân TPHCM không bị đói.
"Tổ buôn lậu gạo" của ông Sáu Dân năm đó không ai phải đi tù vì
phá rào. Nhưng sau này, trong quá trình xây dựng đường dây 500KV Bắc - Nam, ông
Sáu Dân đã chứng kiến người cộng sự của mình - Bộ trưởng Năng lượng Vũ Ngọc Hải
phải vào tù vì nhập 4.000 tấn thép từ một công ty tư nhân để phục vụ cho việc
xây dựng đường dây 500KV, vì những vướng mắc của cơ chế.
Vào ngày đóng điện cho đường dây 500KV, vị Thủ tướng đương nhiệm của Việt
Nam đã bất ngờ xuất hiện ở trại giam Thanh Xuân từ 5 giờ sáng, mang theo một
chai rượu champagne để uống cùng với ông Vũ Ngọc Hải - người đã sát cánh bên
mình trong quá trình xây công trình lịch sử đó. Cũng hôm ấy, ở trong trại giam,
chiếc huy hiệu đầu tiên của công trình đường dây 500KV đã được ông Sáu Dân trịnh
trọng đeo cho cựu Bộ trưởng Vũ Ngọc Hải vì những đóng góp và cả hy sinh cho
công trình ấy. Vào một thời điểm lịch sử khác, với một con người khác, ông Sáu
Dân đã thực hiện lời hứa của mình…
Khi câu chuyện "xé rào" ở TPHCM được truyền ra ngoài Trung
ương, bà Ba Thi đã ra Hà Nội báo cáo với TBT Lê Duẩn. Sau khi nghe bà Ba Thi
trình bày về động cơ thúc đẩy và những việc mà TPHCM đã làm để cứu đói cho người
dân thành phố, TBT Lê Duẩn chỉ nói một câu: "Chị Ba Thi và anh em trong đó
làm đúng lắm".
Tổ thu mua gạo của TPHCM tồn tại suốt một thời gian dài, không chỉ giải
quyết vấn đề lương thực cho người dân TPHCM, mà còn tạo ra một làn sóng
"xé rào" ở nhiều địa phương trong cả nước.
ĐIỀU ÔNG 6 DÂN HỐI TIẾC VÀ RÀO CẢN TỪ TÌNH BẠN
Rất nhiều người đã đặt câu hỏi: Tại sao TBT Lê Duẩn - nhà lãnh đạo có vị trí hàng đầu trong Đảng và có uy tín lớn nhất lúc đó lại không thể thực hiện được những tư tưởng đổi mới về kinh tế của mình ngay từ thời điểm đó?
03
DỰ BÁO CỦA ĐẠI TƯỚNG LÊ ĐỨC ANH VÀ ÔNG 6 DÂN ĐI “BUÔN GẠO”
04
SỰ “THAY ĐỔI” CỦA CỐ TBT TRƯỜNG CHINH
Những cải cách táo bạo của ông Võ Văn Kiệt có thể không làm nhiều người bất ngờ, vì bản thân ông vốn luôn được coi như một biểu tượng của khát vọng cải cách và đổi mới kinh tế. Những năm trước Đổi Mới còn ghi dấu sự thay đổi từ nhà lãnh đạo nghiêm cẩn, rất coi trọng lý luận và hết sức nguyên tắc nhưng lại được coi là Tổng Bí thư của "Đổi mới". Đó là Tổng Bí thư Trường Chinh.
Ông Trần Việt Phương (người từng làm thư ký cho ba nhà lãnh đạo Phạm Văn
Đồng, Lê Duẩn và Nguyễn Duy Trinh), từng nhận xét rằng: "Ông Trường Chinh
thường được anh em gọi là anh "Mười Nghiêm": Nghiêm túc, nghiêm nghị,
nghiêm trang, nghiêm khắc... Ông quả là con người của những công thức hoàn chỉnh.
Trong cách nói, cách viết, cách suy nghĩ, cách đối xử ông đều như thế. Cả đời
ông có lẽ chỉ có một điều "không nghiêm", mà đó là điều rất tốt cho cả
đất nước ta, đó là vào cuối đời ông có sự thay đổi 180 độ về quan điểm kinh tế.
Có thể nói đó là sự lột xác, chuyển từ một người bảo thủ sang một người cấp tiến
và là tác giả chính của sự nghiệp đổi mới. Cái "không nghiêm" này suy
cho cùng lại là rất nghiêm về tính nguyên tắc, tức là kiên quyết bảo vệ cái mà
mình đã tin là đúng".
Nhận định này được chính ông Trần Việt Phương tái khẳng định trong lần trả
lời phỏng vấn của người viết: "Đó là sự thay đổi 180 độ... Thật may mắn vì
sự thay đổi đó có lợi cho đất nước".
Năm 1956, tại Hội nghị TW X, khóa II bàn về vấn đề Sửa sai trong Cải cách
ruộng đất, ông Trường Chinh từ chức Tổng Bí thư lần thứ nhất. Những năm 1966 -
1967, ông Kim Ngọc, Bí thư Vĩnh Phúc thực hiện mô hình khoán hộ. Tháng 11/1968,
ông Trường Chinh (khi đó là Chủ tịch Quốc hội) lên nói chuyện ở Hội nghị của Tỉnh
ủy Vĩnh Phú và quyết định đình việc khoán lại.
Từ năm 1982, ông Trường Chinh đã lập nên một nhóm nghiên cứu và cố vấn
(think tank) tập hợp các trí thức, những chuyên gia, những bộ óc hiểu biết
trong lĩnh vực kinh tế và có tư tưởng đổi mới. Đó có thể coi là một trong những
"think tank" đầu tiên do các nhà lãnh đạo Việt Nam lập nên. Không chỉ
lắng nghe, ông Trường Chinh dành rất nhiều thời gian để đi cơ sở để "mắt
thấy tai nghe" những điều mà trước đây ông từng không nhìn thấy được qua
những báo cáo vốn không phải lúc nào cũng thành thật.
Có lần ông Trường Chinh đi thăm nơi chăn nuôi lợn của một HTX, ông rất
vui vì đàn lợn của HTX con nào con đấy đều béo tốt. Nhưng sau đó, ông mới biết
người HTX đó đã xuống những hộ gia đình chăn nuôi cá thể và mượn những con lợn
béo tốt nhất để có "thành tích" mà báo cáo.
"Ông ấy không chỉ bực mình với những báo cáo sai, mà còn bực mình với
chính mình vì đã có một thời gian "ngủ quên" trên những báo cáo ấy",
lời của ông Hà Nghiệp - trợ lý của cố TBT Trường Chinh được GS Đặng Phong thuật
lại.
Cũng trong cuốn "Tư duy Kinh tế Việt Nam 1975-1989", GS Đặng
Phong có viết: Năm 1983, ông Trường Chinh tham dự Hội nghị Đà Lạt, cùng với các
nhà lãnh đạo cao cấp như Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Nguyễn Văn Linh. Tại đó, ông
đã tiếp xúc với hàng trăm giám đốc các xí nghiệp quốc doanh để lắng nghe về những
hiện tượng vô lý của cơ chế kinh tế cũ đã cản trở sản xuất, lưu thông như thế
nào.
Sau này, ông Trường Chinh kể lại, ông đã đặc biệt xúc động khi nghe ông
Thụy - Giám đốc Nhà máy Thuốc lá Vĩnh Hội vừa rưng rưng khóc vừa nói về bi kịch
của xí nghiệp mình: Ông Thụy đã tìm mọi cách bươn chải, tháo gỡ những khó khăn
cho sản xuất, chăm lo cho đời sống công nhân trong xí nghiệp, nhưng bản thân
ông luôn bị quy kết là làm sai đường lối. Sau khi trở về từ Hội nghị Đà Lạt,
ông Trường Chinh đã nói: "Kể từ hôm đó, tôi buộc phải suy nghĩ lại một loạt
vấn đề".
Sự chuyển biến về tư duy của ông Trường Chinh trong giai đoạn từ năm
1982-1986 là tiền đề cho những cải cách mà ông đề ra trong Báo cáo Chính trị
cho Đại hội VI, khi ông thay ông Lê Duẩn trở thành Tổng Bí thư (sau khi ông Lê
Duẩn qua đời) năm 1986. Trong cuộc họp Bộ Chính trị ngày 4/4/1986, ông Trường
Chinh đã thay mặt Bộ Chính trị đọc báo cáo với nội dung: "Bộ Chính trị,
trong đó có tôi, đã thông qua một số quyết định sai, đã bố trí cán bộ sai mà
không kịp thời sửa, đã không thẳng thắn nói hết được ý kiến để cùng nhau thảo
luận đi đến nhất trí, đã không kiên trì cái đúng, phân tích đầy đủ cái sai… đó
là khuyết điểm của Bộ Chính trị".
Trong những bộ óc được coi là mở đường đi cho Đổi Mới, không thể không nhắc
tới Tổng Bí thư Đỗ Mười. Năm 1988, 2 năm sau Đại hội VI, ông Phạm Hùng qua đời.
Ông Võ Văn Kiệt trở thành quyền Thủ tướng. Đến kỳ họp Quốc hội tháng 6 năm
1988, Phó Thủ tướng Đỗ Mười được Bộ Chính trị giới thiệu với Quốc hội vị trí
làm Thủ tướng. Đó là lần đầu tiên trong lịch sử Quốc hội, có một Đại biểu do Bộ
Chính trị đề cử, và một ứng viên khác (ông Võ Văn Kiệt) do Quốc hội đề cử. Kết
quả, ông Đỗ Mười trở thành Thủ tướng Việt Nam từ năm 1988 đến năm 1991.
TS Võ Đại Lược, người từng tư vấn cho các Tổng Bí thư Trường Chinh, Nguyễn
Văn Linh, Đỗ Mười; các Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, kể: "Khi ông
Đỗ Mười trở thành chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng Chính phủ), một nhà sử
học Canada viết bài báo và đặt nghi vấn: Người bảo thủ nhất của Trung Quốc là Đặng
Tiểu Bình lại là người đổi mới quyết liệt. TBT Trường Chinh của Việt Nam cũng
thế. Vậy liệu ông Đỗ Mười, cũng là người bảo thủ, có tiếp tục xu hướng
này?". Sau khi bài báo đó được xuất bản, TS Võ Đại Lược đã mang đến cho
ông Đỗ Mười đọc, ông chỉ cười.
Theo nhận định của ông Sáu Dân và GS Đặng Phong, thời điểm này đã cho thấy
ông Đỗ Mười có những chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy và điều hành kinh tế. Ông lắng nghe ý kiến của giới trí thức trong
nước, điều hành Chính phủ một cách dân chủ và chấp nhận cả những ý kiến trái
chiều.
Có lần, khi Tiến sĩ Kinh tế học Việt kiều Vũ Quang Việt (một chuyên gia
kinh tế gốc Việt làm việc cho Liên Hợp Quốc), chia sẻ với ông Đỗ Mười những nhận
định về sai lầm trong chính sách kinh tế Việt Nam, ông Đỗ Mười "đã tức giận
đến đập bàn đập ghế vì cho rằng đó là những lời nói khiến người ta hoang mang về
đất nước". Nhưng sau đó, ông vẫn mời Nhà kinh tế Vũ Quang Việt đến gặp
mình nhiều lần và lắng nghe không ít ý kiến từ đó.
TS Lê Văn Viện kể: "Ông Đỗ Mười làm Thủ tướng khi lạm phát vẫn còn ở
mức 200%. Nó không cao như thời điểm 1986 (600-700%), nhưng cũng đủ để khiến
chiếc ghế Thủ tướng của ông là chiếc ghế nóng không dễ ngồi. Sau khi lắng nghe
những ý kiến từ các chuyên gia, ông Đỗ Mười đã quyết định tăng lãi suất huy động
tiền gửi lên 12%, đồng thời áp dụng chính sách cho phép kiều bào gửi thuốc men,
hàng hóa từ nước ngoài về hoàn toàn miễn thuế. Nhờ thế mà giảm phát liên tục giảm
đáng kể trong một thời gian ngắn". Năm 1989, lạm phát Việt Nam xuống dưới
mức 100%. Đến năm 1992, tỷ lệ lạm phát về mức dưới một con số. Đó là một trong
những đóng góp to lớn nhất của ông Đỗ Mười khi nắm cương vị Thủ tướng những năm
đầu Đổi Mới.
Khi viết về các nhà lãnh đạo Việt Nam và những quyết sách của họ trong
giai đoạn trước và sau Đổi Mới, GS. Đặng Phong luôn bày tỏ sự kính trọng của
mình. Ông nói "Tôi giữ thái độ cảm thông, thậm chí trân trọng đối với những
sai lầm, vấp váp trên những bước tìm đường. Đoàn quân vạch đường vào lịch sử
không giống như một đoàn đồng diễn với những người mặc đồng phục, những động
tác đều răm rắp theo một nhịp điệu định sẵn. Họ là những người thám hiểm, đi
trên con đường mà nhiều đoạn chưa có biển chỉ đường, thậm chí chưa có dấu chân
người. Dù thế nào thì đó cũng là đội hình của những con người can trường và đầy
tâm huyết. Những vấp váp, nhỡ bước đều là những trả giá khó tránh khỏi của sứ mệnh
này và đáng được nhìn nhận bằng thiện cảm".
SỰ “THAY ĐỔI” CỦA CỐ TBT TRƯỜNG CHINH
Những cải cách táo bạo của ông Võ Văn Kiệt có thể không làm nhiều người bất ngờ, vì bản thân ông vốn luôn được coi như một biểu tượng của khát vọng cải cách và đổi mới kinh tế. Những năm trước Đổi Mới còn ghi dấu sự thay đổi từ nhà lãnh đạo nghiêm cẩn, rất coi trọng lý luận và hết sức nguyên tắc nhưng lại được coi là Tổng Bí thư của "Đổi mới". Đó là Tổng Bí thư Trường Chinh.
Nhận xét
Đăng nhận xét