CT VIỆT-TÀU-1979:-4 LỰC LƯỢNG THAM CHIẾN
TÀU XÂM LƯỢC VIỆT NAM-1979:
4
LỰC LƯỢNG THAM CHIẾNTổng số quân đội Trung Quốc vào thời điểm 1979 ước khoảng 4,5 triệu[28] trong đó số quân được tập trung ở biên giới Việt-Trung khoảng 250.000. Trung Quốc có 121 sư đoàn bộ binh, 11 sư đoàn thiết giáp, 40 sư đoàn pháo binh, 3 sư đoàn không quân với 5.000 máy bay chiến đấu, 400.000 lính phòng không và 300.000 lính hải quân. Vào đầu cuộc chiến tranh, Trung Quốc huy động quân của hai đại quân khu Quảng Tây và Vân Nam, gồm 9 quân đoàn chủ lực và 32 sư đoàn bộ binh độc lập; 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn, nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không cùng hàng trăm pháo hạng nặng, hàng nghìn súng cối và dàn hỏa tiễn.[29]
Quân Trung Quốc ước lượng có 600.000 người.[30] Hải quân phái một lực lượng đặc nhiệm (gồm hai tàu khu trục tên lửa cùng ba đội tàu phóng lôi nhanh có hỏa tiễn) tới quần đảo Hoàng Sa (mà Bắc Kinh xâm chiếm từ tháng 1/1974) để phòng trường hợp Liên Xô can thiệp bằng hải quân. Hai tỉnh Quảng Tây và Vân Nam đã huy động hàng chục ngàn quân và dân công để hỗ trợ hoạt động quân sự.[31]Không quân Trung Quốc không tham dự trực tiếp nhưng đã có 8.500 chuyến bay trinh thám và 228 chuyến bay trực thăn
g vận tải.[32]
Quân đội Nhân dân Việt Nam được đánh giá có khoảng 600.000 bộ binh, 3.000 lính thủy, 300 máy bay và 12.000 lính phòng không, trong đó 19 sư đoàn tập trung ở biên giới Tây Nam, 4 sư đoàn ở biên giới Lào trước cuộc chiến tranh Việt-Trung.[33] Lực lượng còn lại giữ Hà Nội và các tỉnh Bắc Bộ chỉ khoảng 100.000. Niên giám châu Á năm 1980 cho biết lực lượng Việt Nam đóng ở biên giới gồm sư đoàn 3 (đóng tại Lạng Sơn) và sư đoàn 316A (đóng tại Sa Pa), sư đoàn 346 ở Cao Bằng, 325B ở Quảng Ninh, 345 ở Lào Cai, 326 ở Phong Thổ, Lai Châu. Các lực lượng còn lại gồm bộ đội địa phương, công an vũ trang (bộ đội biên phòng), dân quân tự vệ và nhân dân 6 tỉnh biên giới Lai Châu, Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Hà Tuyên (Hà Giang – Tuyên Quang), Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh. Con số tổng lực lượng phòng thủ của Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc chỉ có khoảng 50.000 quân.[34] Như vậy, quân Trung Quốc tham chiến gấp hơn 10 lần lực lượng tham chiến thực tế của Việt Nam.
Quân đội Việt Nam được đánh giá là thiện nghệ, có kinh nghiệm chiến đấu, có vũ khí trang bị hiện đại từ kho chiến lợi phẩm thu được từ Mỹ và sự giúp đỡ của Liên Xô. Tuy nhiên các yếu tố này không phát huy được nhiều tại biên giới Việt-Trung lúc xảy ra chiến sự vì hầu như chỉ có quân địa phương, công an vũ trang trang bị vũ khí nhẹ và dân quân tự vệ bảo vệ biên giới.[35]
Quân đội Trung Quốc là bậc thầy về sử dụng pháo binh. Trong chiến tranh, Trung Quốc đã huy động 18.000 khẩu pháo các loại từ 37, 57, 82 ly cho đến 130, 160, 180 ly, dàn hỏa tiễn. Khoảng 700 máy bay đã được huy động nhưng không tung vào tham chiến vì e ngại lưới lửa phòng không và lực lượng không quân có tiếng của Việt Nam. Từ chiến tranh biên giới Trung – Ấn năm 1962, quân đội Trung Quốc không đánh trận, không có kinh nghiệm chiến trường. Hậu quả 10 năm cách mạng văn hóa cũng làm quân đội Trung Quốc suy yếu, nhiều lính mới nhập ngũ. Bù lại, Trung Quốc có đội quân “sơn cước” tuyển mộ từ những người Hoa ở Việt Nam lâu năm quen biết địa hình, thông thổ, dẫn đường cho quân đội.
Địa hình miền núi phía Bắc Việt Nam phức tạp, không thuận lợi cho Trung Quốc triển khai các đơn vị tăng thiết giáp và ngăn cản các thiết bị thông tin lạc hậu. Tuy nhiên, các tướng lĩnh Trung Quốc với chiến thuật biển người truyền thống tin tưởng rằng họ sẽ đè bẹp đối phương trong thời gian ngắn.
So sánh lực lượng, Trung Quốc có thế áp đảo hơn Việt Nam nhiều lần. Đặng Tiểu Bình đặt quyết tâm chỉ có thể thắng—hoặc có thể giải thích là đã thắng trong cuộc chiến—để dẹp tan mọi dư luận chống đối. Tình hình nội bộ Trung Quốc còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ sau khi Đặng quay lại nắm quyền lần thứ hai. Bè lũ bốn tên đã bị loại khỏi quyền lực, nhưng nhóm Hoa Quốc Phong-Uông Ðông Hưng còn đó; đang chờ cơ hội phản công. Đặng Tiểu Bình đã quá lớn tuổi không cho phép làm lại lần thứ ba. Cuộc tấn công Việt Nam là một biện pháp tranh giành quyền lực và thúc đẩy bốn hiện đại hóa quân đội Trung Quốc, củng cố quyền lực cho Đặng.
Phương châm quân sự chủ đạo của quân đội Trung Quốc là tập trung binh lực, đánh đòn phủ đầu, nhanh chóng chia cắt, tiêu diệt sinh lực đối phương. Tướng Hứa Thế Hữu đã triển khai cụ thể phương châm này bằng một chiến thuật gọi là “ngưu đao sát kê” (dùng dao mổ trâu để cắt tiết gà). Hứa Thế Hữu chủ trương: “Ðánh nhanh toàn tuyến, chiến thuật biển người, bao gạo súng trường, người Hoa dẫn đường”.[36] Nguyên tắc chủ đạo khi giao chiến gồm ba điểm: tập trung tấn công vào vị trí quan trọng nhưng không phải điểm mạnh của quân địch; sử dụng lực lượng và hỏa lực áp đảo (tiền pháo hậu xung) để đập tan hàng phòng ngự của địch tại những những điểm mấu chốt; các đơn vị xung kích phải hết sức nhanh chóng thọc sâu và tấn công tất cả các con đường dẫn đến sào huyệt kẻ thù. Theo cách này Hứa tin rằng quân đội của ông ta có thể cắt nhỏ hệ thống phòng thủ của Việt Nam thành từng mảnh, đập tan mọi sự kháng cự, và sau đó tiêu diệt hết quân địch. Lãnh đạo quân đội Trung Quốc còn tuyên bố rất mạnh bạo với quân lính “sáng ăn cơm Đồng Đăng, chiều ăn cơm Hà Nội”.
Các sử gia phương Tây kết luận chiến tranh năm 1979 không phải là một cuộc phản kích tự vệ hạn chế như Trung Quốc tuyên truyền. Chiến dịch năm 1979 đã là một hoạt động quân sự lớn liên quan đến gần mười một đoàn quân Trung Quốc, có quy mô tương đương với cuộc tấn công của quân Trung Quốc trong chiến tranh Triều Tiên tháng 11/1950, và vượt quá sâu biên giới Trung Quốc – Việt Nam.[37]
Nhận xét
Đăng nhận xét