CT VIỆT-TÀU-1979: 5-DIỄN BIẾN CUỘC CHIẾN
TÀU XÂM LƯỢC VIỆT NAM-1979:
5
5
DIỄN BIẾN CUỘC CHIẾN
Cuộc tấn công được bắt đầu vào 3 giờ sáng ngày 17/2/1979. Trung Quốc bất
ngờ đưa quân tràn qua biên giới, đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới lãnh thổ
Việt Nam từ Pa Nậm Cúm (Lai Châu) đến Pò Hèn (Quảng Ninh) với chiều dài 1.200
km. Từ đêm 16/2, các tổ thám báo Trung Quốc đã mang theo bộc phá luồn sâu vào nội
địa Việt Nam móc nối với “lực lượng thứ năm” bí mật cắt các đường dây điện thoại,
phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, cây cầu, khai quật các hầm vũ khí đã được
chôn lấp chuẩn bị trước. Được sự dẫn đường của lính sơn cước và đạo quân thứ
năm, quân Trung Quốc vòng qua các vị trí đồn công an vũ trang Việt Nam, thọc
sâu, đánh chiếm các vị trí huyện lỵ quan trọng.[1] Có
thể nói Trung Quốc đã hoàn toàn giữ được yếu tố bất ngờ và chủ động trong dụng
binh.
Tối 17/2/1979, Thông tấn xã Việt Nam kêu gọi Liên Xô và các nước anh em
giúp đỡ bảo vệ Việt Nam chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc. Bộ
Ngoại giao Việt Nam cũng gửi ngay Công hàm cho Liên Hợp Quốc kêu gọi Trung Quốc
ngừng ngay cuộc chiến xâm lược.
Ngày 18/2/1979, Liên Xô ra tuyên bố ủng hộ cuộc chiến đấu của Việt Nam;
“Nhân dân Việt Nam anh hùng, lại vừa trở thành nạn nhân của cuộc xâm lược hôm
nay, có đủ khả năng để quật khởi cho chính họ một lần nữa, và hơn thế họ có những
người bạn tin cậy được. Liên Xô sẽ nghiêm chỉnh tôn trọng những cam kết theo Hiệp
ước Hữu nghị và Hợp tác giữa Liên bang CHXHCN Xô viết và CHXHCN Việt Nam”.[2] Liên
Xô cũng cảnh báo Trung Quốc bằng việc đặt các lực lượng vũ trang Liên Xô ở
Siberia vào tình trạng báo động đồng thời cung cấp cho Việt Nam một số thông
tin quân sự thu được từ vệ tinh do thám. Ngày 19/2/1979, một nhóm các cố vấn
quân sự của Liên Xô do đại tướng Gennady Obaturov dẫn đầu tới Hà Nội.[3] Trong
giai đoạn từ khi cuộc xung đột bắt đầu (giữa tháng 2) đến cuối tháng 3/1979, bằng
đường thủy, Liên Xô đã hỗ trợ cho Việt Nam hơn 400 xe tăng và xe bọc
thép, xe chở quân, 400 cỗ pháo và súng phóng lựu, 50 dàn phóng đạn phản lực 40
nòng, cỡ 122 mm “Grad”, hơn 100 cỗ pháo cao xạ, 400 đồng bộ cao xạ di động cùng
hàng ngàn tên lửa đi theo, 800 súng chống tăng của bộ binh,
20 máy bay tiêm kích.[4]
Hai hoạt động trợ giúp quân sự đáng kể nhất của Liên Xô là giúp hỗ trợ
vận chuyển hàng không quân đội Việt Nam từ biên giới Tây Nam về Bắc và triển
khai một số tàu chiến ngăn chặn tàu Mỹ ở Biển Đông vào những tuần đầu tháng 3.
Liên Xô cũng triển khai một cuộc tập trận từ ngày 12 đến 26 tháng 3 năm 1979
trên lãnh thổ Mông Cổ và trên biển Thái Bình Dương.[5] Phản
ứng ngoại giao và quân sự của Liên Xô cho thấy họ sẽ không can thiệp khi cuộc
xung đột chỉ ở mức độ hạn chế.[6] Liên
Xô không có ý định động binh ở một quy mô lớn nguy hiểm với Trung Quốc chỉ để cứu
Việt Nam. Trong cùng thời gian, các cuộc đàm phán biên giới Xô – Trung vẫn được
tiến hành và đạt được một số thỏa thuận về hải hành trên sông biên giới.[7]
Nghiên cứu của Trung Quốc chia cuộc chiến 29 ngày thành hai giai đoạn:
cuộc chiến phản kích tự vệ (17/2-5/3) và cuộc rút lui (5/3-16/3).
Trong những ngày đầu tiên, quân Trung Quốc đã tiến sâu vào lãnh thổ Việt
Nam có chỗ đến 15-20 km.[8] Dù
bị bất ngờ song chỉ với lực lượng công an vũ trang và dân quân địa phương, Việt
Nam đã quả cảm chặn đánh, ghìm chân quân Trung Quốc nhiều ngày. Trung Quốc chỉ
vào được Lạng Sơn ngày 5/3[9] trước
khi tuyên bố rút quân. Ở hướng Cao Bằng, hai quân đoàn tăng cường của
Trung Quốc hình thành hai cánh quân lớn từ phía tây bắc theo đường Thông Nông
đánh xuống và từ phía đông bắc qua Thạch An, Quảng Hòa đánh lên đã không đạt được
mục tiêu hợp điểm ở thị xã Cao Bằng. Một lực lượng nhỏ bộ đội Việt Nam và dân
quân tự vệ đã kiên cường chặn đứng bước tiến của quân đoàn Trung Quốc tại đèo
Khau Chỉa, thuộc địa phận thị trấn Hòa Thuận (Phục Hòa, Cao Bằng), Trung Quốc
buộc phải đưa thêm xe tăng, xe bọc thép và lực lượng dự bị vào vòng chiến. Tại
các tuyến Hoàng Liên Sơn, Lai Châu, Hà Tuyên, Quảng Ninh, quân Trung Quốc
cũng chịu những tổn thất nặng nề.
Ngày 5/3/1979, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam Tôn Đức Thắng ra lệnh tổng
động viên toàn quốc.[10] Cùng
ngày, Trung Quốc tuyên bố “hoàn thành mục tiêu chiến tranh” và rút quân. Tuyên
bố rút quân có đoạn: “Quân đội biên phòng Trung Hoa sau khi đạt được những mục
đích đề ra vì buộc phải mở cuộc phản công tự vệ ngày 17 tháng 2 chống lại những
cuộc xâm lấn và xâm lược có vũ trang không dứt của quân xâm lược Việt Nam chống
Trung Hoa, nay Chính phủ Trung Hoa tuyên bố kể từ ngày 5/3 tất cả các quân biên
giới Trung Hoa sẽ rút lui về lãnh thổ Trung Hoa. Chính phủ Trung Hoa nhấn mạnh
rằng chúng tôi không muốn một phân đất của Việt Nam nhưng chúng tôi cũng không
chịu được những cuộc xâm nhập phá hoại vào trong lãnh thổ Trung Hoa. Tất cả những
gì mà chúng tôi muốn là một đường biên giới hòa bình và bền vững…”.[11] Trung
Quốc cũng kêu gọi nối lại các cuộc đàm phán mà ngay từ đầu chiến tranh Việt Nam
đã từng đề nghị nhưng không được đáp ứng. Đặng Tiểu Bình phát biểu quân đội
Trung Quốc có thể đánh thẳng đến Hà Nội nếu muốn song chiếm đóng thủ đô Việt
Nam không phù hợp với mục tiêu cuộc “phản kích tự vệ” của Trung Quốc.[12] Quân
giải phóng Trung Hoa đã đánh bại hoang tưởng bất khả chiến bại và đội quân mạnh
thứ ba thế giới của Việt Nam. Trung Quốc đã chứng tỏ Việt Nam không mạnh như họ
tưởng.[13]
Các tác giả Trung Quốc coi đây là 16 ngày gây sốc cho thế giới[14] vì
hành vi dạy cho Việt Nam một bài học từ Trung Quốc, hai nước anh em XHCN. Dù từng
tuyên bố về ý định trừng phạt trước đó, cuộc tấn công của Trung Quốc vẫn bất ngờ
với Việt Nam và cả thế giới.[15] Các
nước đều chăm chú theo dõi với quan ngại cuộc chiến có thể kéo theo sự can thiệp
của các cường quốc khác như Liên Xô và Mỹ. Từ phía khác, đây đúng là những ngày
gây sốc vì:
Tính chất ác liệt của chiến tranh và sức chiến đấu kiên cường của dân
quân tự vệ, bộ đội địa phương Việt Nam đã làm phá sản nhanh chóng kế hoạch đánh
nhanh thắng nhanh của đội quân mạnh hơn gấp 10 lần. Sức chiến đấu và lòng yêu
nước của nhân dân Việt Nam đã làm ngạc nhiên thế giới trong điều kiện không có
giúp đỡ vật chất từ nước khác, ngoài các tuyên bố lên án chiến tranh, ủng hộ Việt
Nam từ các nước XHCN và nhân loại tiến bộ. [16]
Năng lực chiến đấu của Quân giải phóng Trung Hoa không như đánh giá.
Các tướng Trung Quốc tin rằng Việt Nam sẽ đổ gục ngay từ cú đánh đầu tiên và họ
sẽ dễ dàng bị quét sạch. Thực tế quân đội Trung Quốc đã bị tổn thất nặng nề.
Quân Việt Nam cũng thực hiện những cú giáng trả ngay vào hậu phương Trung Quốc.
Ngày 1/3/1979, AFP và Tân Hoa Xã đều xác nhận có một cuộc đột kích “cảm tử” vào
phi trường Ninh Minh (Ningming) trong tỉnh Quảng Tây, cách xa biên giới bốn
mươi cây số.
Tuyên bố rút quân nhanh chóng của Đặng Tiểu Bình khi Trung Quốc thông
báo đã chiếm được Lạng Sơn mở toang cánh cửa vào Hà Nội. Ngoài sức chiến đấu
không ngờ tới của quân địa phương Việt Nam, lý do Quân giải phóng Trung Quốc phải
rút còn do những trở ngại khó khắc phục về hậu cần và khả năng đụng độ lớn với
quân chủ lực Việt Nam được điều động từ chiến trường Tây Nam ra Bắc. Một lý do
khác là những người lãnh đạo ở hai bên chiến tuyến đã quá hiểu nhau.
Đặng Tiểu Bình và Lê Duẩn đã có nhiều lần gặp mặt và đều là những người
quyết đoán. Trong bài phát biểu của mình sau chiến tranh 1979, Lê Duẩn đã khái
quát: “Trung Quốc hiện nay có một đội quân ba triệu rưỡi người nhưng họ phải
để lại một nửa trên biên giới Trung – Xô để phòng ngừa Liên Xô. Vì lý do đó nếu
họ có mang một hoặc hai triệu quân sang đánh ta, chúng ta cũng không hề sợ hãi
gì cả. Chúng ta chỉ có sáu trăm ngàn quân ứng chiến và nếu sắp tới chúng ta phải
đánh với hai triệu quân thì cũng không có vấn đề gì cả. Chúng ta không sợ vì
chúng ta đã biết cách chiến đấu. Nếu họ mang vào một triệu quân thì họ cũng chỉ
đặt được chân ở phía Bắc. …
Phải đối mặt với những làng mạc, thành phố, nhân dân và công tác phòng
ngự, không ai có thể thực hiện một cuộc tiến công hiệu quả chống lại từng người
dân. Thậm chí có phải đánh nhau hai, ba năm hoặc bốn năm, họ cũng không thể tiến
vào được. …Mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một chiến trường. Chúng ta sẽ
chiến đấu và họ sẽ không thể xâm nhập vào được”.[17]
Lý do thứ tư, Trung Quốc chủ động rút quân theo kế hoạch khi mục tiêu hợp thức hóa các tranh chấp lãnh thổ đã đạt được và Trung Quốc tính toán đủ để vấn đề không bị đưa ra trước Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, không gây cớ cho sự can thiệp nếu có từ phía Liên Xô hay khó xử cho Mỹ, nước ngầm ủng hộ cuộc chiến tranh.
Lý do thứ tư, Trung Quốc chủ động rút quân theo kế hoạch khi mục tiêu hợp thức hóa các tranh chấp lãnh thổ đã đạt được và Trung Quốc tính toán đủ để vấn đề không bị đưa ra trước Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, không gây cớ cho sự can thiệp nếu có từ phía Liên Xô hay khó xử cho Mỹ, nước ngầm ủng hộ cuộc chiến tranh.
Tuyên bố rút quân được đưa ra vài giờ trước khi Chủ tịch Tôn Đức Thắng
ban hành lệnh tổng động viên. Khi đó hoàn toàn là một cuộc chiến tranh xâm lược,
đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế, buộc Hội đồng Bảo an phải xem xét. Đặng Tiểu
Bình hiểu rõ quyết tâm của Việt Nam và sự lợi hại của chiến tranh du kích.
Tuyên bố rút quân của ông đã được tính toán kỹ song nó gây sốc cho công chúng,
những người chưa hiểu rõ thế mạnh chiến tranh du kích của Việt Nam. Lịch sử nhiều
lần chứng minh các cuộc tấn công thần tốc từ phương Bắc cuối cùng đều bị đánh bại
khi tiến sâu vào đồng bằng Bắc Bộ.
Mức độ tàn ác của quân Trung Quốc khi thực hiện lệnh của Hứa Thế Hữu
“sát cách vô luận”, bất kể là gặp người Việt Nam nào dù già hay trẻ, nam
hay nữ đều là kẻ địch và phải giết hết[18].…Ngày
22/2/1979, lính Trung Quốc thả hơi độc vào pháo đài Đồng Đăng giết hại hơn 400
dân và thương binh; ngày 9/3/1979, trong vụ thảm sát ở thôn Tổng Chúp, xã
Hưng Đạo, TP. Cao Bằng, lính Trung Quốc trên đường rút quân về nước đã dùng gậy,
cuốc đập sọ 43 người, phần lớn là phụ nữ, trẻ em và quẳng tất cả thi thể xuống
giếng cổ.
Ngày 7/3, thể hiện thiện chí hòa bình, Việt Nam tuyên bố cho phép Trung
Quốc rút quân. Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Việt Nam nêu rõ: “Nhân dân Việt Nam
tôn trọng nhân dân Trung Hoa, cố gắng duy trì tình hữu nghĩ bền vững và mong muốn
lập lại hòa bình trong khu vực Đông Nam Á. …Nếu việc triệt thoái là một âm mưu
che đậy chính sách xâm lược thì nhân dân Việt Nam sẽ đánh trả. Lệnh tổng động
viên đã có hiệu lực và nhân dân Việt Nam sẽ đáp ứng lời kêu gọi để sẵn sàng chiến
đấu.”[19] Các
cuộc đàm phán ở cấp Thứ trưởng ngoại giao sẽ được tiến hành với điều kiện quân
Trung Quốc phải rút hết về nước.
Quân đội Việt Nam thi hành chính sách nhân đạo “trải thảm đỏ” cho quân
Trung Quốc rút lui mà không tổ chức các cuộc truy kích. Ngược lại, cuộc rút
quân của Trung Quốc với chính sách tận diệt đã mang lại biết bao đau thương,
thiệt hại cho Việt Nam. Các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn và một
số thị trấn khác bị san phẳng. Các nhà báo nước ngoài đưa tin quân Trung Quốc
trên đường rút đã cướp bóc, tàn sát và phá hoại, đốt phá nhà cửa của dân chúng
Việt Nam.[20] Chiến
dịch tàn phá này được lính Trung Quốc gọi là “nụ hôn từ biệt”.
Ngày 15/3/1979, Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam ra một “Bị vong lục”, tố
cáo Trung Quốc:
1-Xâm canh, xâm cư, xâm lược lấn đất
2-Lợi dụng các công trình hữu nghị
để di chuyển những trụ mốc
3-Đơn phương xây dựng các công
trình biên giới lấn vào lãnh thổ Việt Nam
4-“Mượn đất Việt Nam để lấn vào
lãnh thổ”
xê dịch mốc biên giới và xuyên tạc
luật pháp để lấn đất
5-Làm đường biên giới lấn sang Việt
Nam
6-Lợi dụng việc vẽ bản đồ cho Việt
Nam để sửa biên giới
7-Dùng lực lượng vũ trang để đóng
đồn, lấn đất
8-Chiếm Hoàng Sa của Việt Nam,
nhưng nhai đi nhai lại luận điểm “Trung Quốc không thèm một tấc đất của Việt
Nam.”[21]
Ngày 16/3/1979, Bắc Kinh tuyên bố đã hoàn tất việc rút quân, và kêu gọi
Việt Nam triệt thoái khỏi Campuchia.
Tuy nhiên, một số tài liệu chưa được kiểm chứng cho biết ngày
22/3/1979, Trung Quốc huy động thêm quân, chiếm 30 điểm trên lãnh thổ Việt Nam,
dời 6 cột mốc biên giới ở Lạng Sơn; 10 ở Hoàng Liên Sơn; 10 ở Hà Tuyên. Lỗ
Minh, Ðại biện Trung Quốc ở Hà Nội, tuyên bố quân Trung Quốc chỉ chiếm lại lãnh
thổ Trung Hoa. Thực sự cho đến cuối năm 1988, Trung Quốc đã không rút hết quân
như tuyên bố. Suốt hơn 10 năm (1979-1990), chiến sự vẫn tiếp diễn, cao điểm nhất
là năm 1984-1985. Chiến sự tập trung ở những khu vực không được biết đến, xa đường
giao thông, cửa khẩu quốc tế nhằm hạ thấp sự chú ý của dư luận quốc tế. Nhiều
đơn vị quân đội của Trung Quốc đã được luân chuyển tới biên giới, biến biên giới
Bắc Việt Nam thành thao trường.
Việt Nam vì thế buộc phải thường xuyên duy trì một lực lượng quân sự lớn
dọc biên giới.
Nhận xét
Đăng nhận xét