Thành trì hợp tác xã (HTX) nông nghiệp vừa siết lại ở miền
Nam đã đưa đẩy người dân vào cảnh bát cơm độn với ngô khoai. Mọi người đều cảm
thấy bức bách tìm đường thoát. Và cái chuyện ngăn sông cấm chợ rồi cũng bị công
phá nốt. Trả lại nông cụ cho dân Linh hồn của HTX và các tập đoàn sản xuất là công hữu hóa tư liệu sản xuất
(ruộng đất và nông cụ). Cuối năm 1978, An Giang quyết định thành lập HTX Hòa
Bình Thạnh, huyện Châu Thành làm nhân tố điển hình để mở rộng phong trào hợp
tác hóa. Ông Sáu Kiệt, nguyên chủ nhiệm HTX Hòa Bình Thạnh, huyện Châu Thành, An
Giang, kể: vận động bà con vào HTX, công an còn phải đứng bên bờ yêu cầu nông
dân phá hết rau để giao đất cho HTX. Ông Nguyễn Ngọc Trìu, nguyên bộ trưởng Nông nghiệp, từng chứng kiến cảnh
hai vợ chồng có một con trâu, chồng nghe vận động vào HTX, vợ thì không. Khi ra
đồng, chồng đòi dắt trâu cày cho hợp tác, vợ giằng lại thừng để cày cho ruộng
nhà. Không thể chống nhiệm vụ được HTX giao, chồng phải trói vợ giữa đồng để
cày xong mới thả cả người lẫn trâu... Rồi mạ chết rét, thời vụ sắp hết, loa HTX
gọi xã viên ra đồng cấy dặm nhưng từng đoàn người uể oải dắt díu nhau như đi hội.
Vừa làm vừa ngẩng đầu tán gẫu chờ kẻng nghỉ trưa. Và dù không thiên tai thì năm nào cũng như mất mùa... Cảnh cha chung
không ai khóc bao trùm lên tất cả các HTX lúc bấy giờ. Cuối mỗi buổi làm, cán bộ
HTX ghi điểm từng người. Chỉ cần đánh trống ghi tên là được. Điểm này sau qui
ra thóc với giá rất rẻ rúng. Làm ăn như vậy, cuối vụ thóc thu về bằng 1/4 thời chưa vào hợp tác. Ai
dành dụm được chút lúa thì phải bán cho Nhà nước, cấm mang ra chợ. Giá Nhà nước
mua chỉ bằng 1/10 giá chợ và không đủ hoàn vốn đầu tư. Thời trước bà con xã Hòa Bình Thạnh đã đầu tư rất nhiều máy móc phục vụ sản
xuất. Toàn xã 900 hộ có hơn 70 cỗ máy cày, bừa, bơm, xới... Vận động bà con vào
HTX rất khó nhưng lãnh đạo ra chủ trương bằng mọi giá phải công hữu hóa hết số
máy móc nông cụ. Tất nhiên việc ấy thì làm được nhưng hầu hết các chủ máy đều rất miễn cưỡng
vào tập thể. Họ nói đây là thứ tài sản lớn, nhiều năm chắt chiu mới có được. Thứ
hai phải “hiểu” nó, “yêu” nó thì nó mới sống mà nuôi người được. Nay đưa vào hợp tác, thu nhập tính bằng công lao động, máy giao người
khác như vậy là họ mất không… Thế là dù phải nộp máy cho hợp tác nhưng họ cố
tình tháo bớt phụ tùng. Có người chặt gần đứt cả xích, cưa cả trục máy rồi mới
giao HTX. Số máy có thể hoạt động thì những chủ cũ không chịu điều khiển hoặc không
được điều khiển nên giao cho chủ mới. Chủ mới thường thiếu kỹ thuật hoặc thiếu
tâm huyết nên chẳng mấy chốc cũng lại để đắp chiếu. Thế là sau một vụ, 100% đầu máy nông nghiệp của xã phải nằm kho, hàng
trăm hecta đất không làm kịp vụ phải bỏ hoang. Ông Nguyễn Văn Hơn, nguyên bí thư Tỉnh ủy An Giang, nhớ rất rõ: lúc ấy tỉnh
gần như hoàn thành chỉ tiêu hợp tác hóa bằng các tập đoàn sản xuất và HTX.
Nhưng đồng hành với việc này là 20.000ha diện tích đất bỏ hoang (chiếm gần 10%
tổng diện tích) vì lý do trên. Không có cách nào khác để khắc phục ngoài việc phải trả máy cho dân. Tuy
nhiên, ý tưởng này là trái với ý chí công hữu hóa tư liệu sản xuất. Ông Hơn yêu
cầu phải nghĩ cách. Ban đầu tỉnh xin Nhà nước kinh phí để mua máy mới và sửa chữa
máy cũ vì an ninh lương thực bị đe dọa. Tất nhiên trung ương lúc ấy lấy đâu ra ngân sách để mua máy nên đã trả lời
không có. Vậy các tập đoàn, HTX muốn hoạt động được phải bỏ tiền ra mà mua, mà
sửa máy. Tỉnh ra công văn yêu cầu những đơn vị đó thực hiện ngay. Với HTX, tập đoàn thì việc này hơn là đánh đố vì làm sao có tiền? Nếu
không tiền thì bán lại những cái đống sắt vụn đó cho dân. Tất nhiên phải bán
đúng giá mà trước đây các anh đã mua (rất rẻ và chủ yếu nợ trên giấy tờ) của
dân và phải bán lại đúng người chủ cũ của máy thì họ mới vận hành được. May quá, các tập đoàn gỡ được thế bí, thi nhau gọi dân đến bán máy mà thật
ra là trả lại cho chủ cũ. Nông dân mừng khỏi phải nói. Và không đầy nửa vụ,
toàn bộ những đống sắt phế liệu lại trở thành chỗ dựa cho hạt lúa và người dân
An Giang khi chạy xình xịch trên các cánh đồng. An Giang đã “xé rào” một cách hợp pháp và ngoạn mục như vậy. Đây cũng là
phát súng đầu tiên và mang tính quyết định trong chiến dịch giải thể các HTX và
tập đoàn sản xuất nông nghiệp của tỉnh, mở ra một hướng đột phá mới. Những mũi đột phá như thế, đặc biệt là khoán chui ở Vĩnh Phú, rồi ở Đoàn
Xá, Đồ Sơn (Hải Phòng) đã đẩy đến điểm chín muồi cho sự ra đời chỉ thị 100
(tháng 1-1981). Văn bản chính thức này cho phép áp dụng “khoán 100” (khoán ba
khâu: cấy lúa, chăm bón, thu hoạch) trên cả nước. Đèn xanh đã bật nhấp nháy chuẩn
bị cho khoán triệt để (khoán 10) giao đất cho dân, bỏ công điểm... sau năm
1986. Mở chợ khơi sông Một trong những yếu tố gây ức chế nhất cho nền kinh tế lúc đó là chính
sách giá mà nổi cộm và có ảnh hưởng lớn nhất là giá thu mua lương thực. Điều
này không phải những người làm chính sách không nhận thức đầy đủ mà là cuộc đấu
tranh giữa hai luồng ý kiến chưa ngã ngũ. Theo chuyên gia sử kinh tế Đặng Phong, một số cán bộ cốt cán của Ủy ban Vật
giá (UBVG) bảo vệ cơ chế và mức giá cũ với lý lẽ CNXH là ổn định giá chỉ đạo,
cách duy nhất có thể đảm bảo cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Những trục trặc hiện nay trên thị trường là do lãnh đạo địa phương chưa
thông, chưa làm tốt, HTX còn nặng tư tưởng tư hữu... Trong khi Bộ Nông nghiệp
và Viện Kinh tế học có ý kiến ngược lại. Có lần, tại diễn đàn Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, ông Trần Phương, viện
trưởng Viện Kinh tế học, phát biểu: cơ chế thu mua này là mua như cướp bán như
cho. Cách tính giá của UBVG là sai vì đã không tính đến điều kiện thị trường, sự
bất cập trong cơ chế cung ứng vật tư của Nhà nước hay nhu cầu ngày càng tăng của
nông dân... Một người trong hội trường chất vấn: Đây là ý kiến cá nhân hay trung
ương? Ông Phương trả lời: Đây là ý kiến trung ương giao tôi trình bày. Đây cũng
là ý cá nhân nhưng là ý của đồng chí tổng bí thư... Sự phản đối cơ chế thu mua này diễn ra ở cơ sở tuy âm thầm nhưng mạnh mẽ
hơn nhiều. Làm việc với lãnh đạo các tỉnh ĐBSCL, một cán bộ UBVG thuyết giảng:
những người cộng sản chúng ta lấy lập trường của CNXH hay lập trường thị trường
tự do để làm giá? Ông Bảy Phong, chủ tịch tỉnh Đồng Tháp lúc đó, trả lời: “Nếu nói phẩm chất
người cộng sản thì chúng tôi không thua bất cứ ai. Khi chúng tôi lăn lộn đánh Mỹ
thì các anh đang ở đâu, làm gì? Đánh Mỹ xong, chúng tôi đi theo CNXH. Nhưng
CNXH gì mà mua không được, bán không được. Người nông dân có thể cho chúng tôi hàng trăm ngàn tạ lúa để đánh Mỹ.
Nhưng bây giờ nói mua phải đúng là mua, nói bán phải đúng là bán. Cơ chế mua
không được, bán không được trong khi lúa đang còn thì đấy có là CNXH không?”. Trong cuộc đấu tranh tư tưởng ấy, An Giang chỉ tính toán bằng những phép
tính đơn giản. Ông Nguyễn Văn Hơn, nguyên bí thư Tỉnh ủy An Giang, nói: năm
1980, khi ông làm chủ tịch tỉnh, trung ương chuyển cho An Giang một lượng hàng
tiêu dùng là săm lốp xe đạp, đường, sữa, vải, xà phòng… tương ứng với nghĩa vụ
An Giang phải thu mua và nộp về trung ương 100.000 tấn lúa. Nhiệm vụ này rất khó vì giá lúa ngoài chợ khi ấy cao gấp 10 giá Nhà nước
mua. Nông dân không muốn bán cho Nhà nước. Ngược lại, với lượng hàng trung ương
phân bổ, tỉnh cũng phải bán cho dân với giá qui định. Giá đó cũng thấp hơn giá chợ, thấp hơn giá thành của nó nhiều lần. Song
giá bán ấy hàm chứa rất nhiều tiêu cực, bất công như đầu cơ, móc ngoặc, tham ô,
cửa quyền, nhũng nhiễu... Cả hai bài toán này đều chung một cách giải đơn giản: tỉnh bán hàng theo
giá chợ và lấy tiền đó cũng mua lúa theo giá chợ. Mạnh dạn thực hiện, năm đó An
Giang mua được 160.000 tấn lúa, vượt chỉ tiêu 60.000 tấn mà vẫn còn thừa 10 triệu
đồng... Nông dân, Nhà nước đều có lợi... Đồng hành với những mũi tấn công vào cơ
chế giá, ở TP.HCM, Công ty Lương thực thành phố cho xe tràn xuống ĐBSCL mua lúa
giá chợ về bán cho 3 triệu dân thành phố tuy có tiền nhưng đang phải ăn độn. Sau cuộc cải cách đó, chủ nhiệm UBVG đương nhiệm chuyển công tác khác.
Ông Đoàn Trọng Truyến được cử về thay và tham gia điều hành cuộc tổng điều chỉnh
giá. Ông Nguyễn Văn Hơn, bí thư An Giang, tác giả của đột phá ở tỉnh, đến năm
1982 chuyển ra trung ương nhận chức thứ trưởng Bộ Nông nghiệp.
Nhận xét
Đăng nhận xét