Những người đứng tuổi chắc vẫn chưa quên cảnh chực chờ ở bến
xe để có tấm vé hiếm hoi xuôi về miền Tây hay lên Tây Nguyên, ra miền Trung nắng
gió. Có cả chuyến xe than... Thời hậu chiến khó khăn, bến xe có mùi không lẫn vào đâu của rác rưới,
bùn lầy, dầu nhớt và cả than củi khét lẹt để chạy xe. Nhưng có lẽ ký ức khó quên nhất vẫn là những đêm nằm đợi qua bắc (phà) Cần
Thơ và Mỹ Thuận, rồi những chiều gió mưa mà đứng tim với chiếc xe cũ nát rền rĩ
leo đèo Rù Rì, Hải Vân... Một ngày, ba mẹ tôi cuốn gói rời vùng quê Vĩnh Thái (Cam Hiệp, Cam Ranh,
Phú Khánh mà nay thuộc tỉnh Khánh Hòa) để đi tìm "đất hứa" - nơi được
hiểu có trường học gần nhà cho con cái theo đuổi chuyện học hành, có điện sáng
ban đêm thoát cảnh tù mù của đèn dầu xóm quê, gần đường quốc lộ để gia đình có
thêm cơ hội đổi đời...
Xe than thời khó Xe than thời khó ra sao? Tủ, giường, heo, gà, đủ thứ hằm bà lằng... được
chất lên một chiếc xe đò có cái bình than phía sau. Chiếc xe ì ạch như một gã
hen già nua kéo chúng tôi đi về một "đất hứa" ở xứ thừa nắng thiếu
mưa... Một đứa trẻ 6 tuổi ở trong làng quê heo hút vào thời bao cấp sẽ không thể
hiểu nổi vì sao một chiếc xe đò lại có thể vận hành bằng cái thùng than nóng
như vạc dầu phía sau. Trong đầu nó, đó là một điều kỳ diệu đi cùng với cảm giác
khủng khiếp. Người lớn như ba mẹ tôi, những người trưởng thành và học hành ở các đô thị
miền Nam, vào lúc ấy chắc cũng không thể hiểu vì sao có sự chuyển tiếp từ chiếc
xe chạy xăng trước 1975 sang chiếc xe chạy than sau 1975. Tâm trí họ có lẽ chỉ
nghĩ tới một hành trình để thoát khổ. Và hành trình đó phải nhờ đến cái phương
tiện giao thông rơi rớt lại từ nền "văn minh cơ khí vận tải" có từ Thế
chiến thứ hai. Sau này, người ta coi chiếc xe chạy than là một sáng kiến về kỹ thuật vận
tải trong thời bao cấp. Đó là thời kỳ Nhà nước quản lý giao dịch xăng dầu theo
chế độ tem phiếu, xăng là mặt hàng được mua bán theo chỉ tiêu khắt khe. Các nhà xe lúc bấy giờ vẫn dùng những chiếc xe chạy xăng thời cũ, nhưng
chỉ đổ xăng ít ỏi đủ để khởi động máy. Động cơ không đổi là mấy, nhưng thay vì
vận hành bằng nhiên liệu khí đốt xăng thì bộ máy những chiếc xe đò được "độ"
lại để chuyển sang nhiên liệu đốt than củi. Than củi được cho vào một thùng
than kín, treo phía sau để đốt cháy thường xuyên nhưng lửa không bén thành ngọn. Cái "buồng than" đó tạo nhiệt lượng chuyển vào bộ hòa khí, giúp
máy xe vận hành. Thường thì mất hơn một giờ đốt, xộc khơi than thì nguồn nhiệt
lượng mới đủ cho xe lăn bánh. Vận tốc xe than chỉ đạt tới khoảng 20 - 30 km/h. Hồi hộp nhất là khi bình than giảm nhiệt lượng mà xe đến đoạn dốc sẽ nhiều
nguy cơ xe bị đuối máy. Những lúc đó, anh lơ xe miệng la oang oang cảnh báo,
tay cầm hai cái gối gỗ nhảy xuống chèn vào hai bánh sau để xe không bất ngờ hụt
hơi, tuột dốc. Năm 1986, khoảng giao thời bao cấp và đổi mới, ở một tuyến đường liên tỉnh
của miền Trung nắng gió, tem phiếu vẫn chưa đi qua, tự do mua bán vẫn còn đầy bỡ
ngỡ. Cả gia đình tôi lắc lư, sặc sừ trên chiếc xe nóng như hỏa diệm sơn dưới
cái nắng nung trời và tiếng la oang oang của anh lơ xe, tiếng văng tục và khạc
nhổ qua cửa lái của bác tài. Càng đi, chúng tôi thấy những làng quê càng hoang vắng, những đồi xương rồng
càng trải dài, những trảng cát càng cô quạnh, những đồi gai càng hoang vu.
Thùng xe bốc lên một thứ mùi không sao quên được. Mùi của phân gà phân heo, mùi
mật xanh mật vàng của mẹ tôi, em tôi ực ra trong những trận ói kéo dài. Mùi ngờm
ngợp khói thuốc lá vấn của bác tài hòa với khói than thi thoảng xì ra từ cái
bình "trung tâm hỏa ngục" cứ nghiến cót két ở cửa sau xe... Muội than bay mù mịt mỗi khi anh lơ leo lên mui xe tạt mấy ca nước chống
nóng rồi dùng một cây sắt xọc vào thùng cời cho củi than cháy tạo thêm nhiệt lượng
cho chiếc xe rệu rã lăn bánh về phía trước. Chiếc xe đi tới đâu, những viên
than cháy đỏ rơi rớt xuống đường đến đó.
Bánh xe chạy trước... xe Xe đi từ Đồng Bà Thìn, qua những vườn dừa xứ biển. Tôi thấy biển như kẻ
chơi trốn tìm, lúc ẩn lúc hiện, màu xanh lóa nắng ngoài ô cửa. Khi đến những đồng lúa có vành đai xương rồng rậm rạp ở vùng Gò Đền, Hộ
Diêm thì chiếc xe lại cà khật cà khật và chao đảo xuôi về phía một bờ đê. Anh
lơ xe đu ở cửa phụ kêu lên hốt hoảng: "A, tấp vô, tấp vô. Cái bánh chạy đằng
trước rồi kìa!". Cả xe nháo nhác. Người lớn ôm chầm con cái chuẩn bị cho một
cú lăn tròn xuống lòng ruộng. Còn bọn trẻ thì la hét hỗn loạn. Bác tài xế vẫn mặt lạnh như tiền, đánh lái vô lăng để cố "dìu"
cái xe lảo đảo chỉ còn ba bánh cho đến khi nó tấp vào được một gốc cây và đứng
khựng. Cả nhà rồng rắn bồng bế nhau bước xuống đường, mặt mũi bơ phờ bám đầy muội
than. Không ai buồn nói với ai câu gì. Mẹ tôi ngồi bệt bờ cỏ và làm dấu thánh
giá. Ba tôi thì lau mặt cho tụi nhỏ rồi hít một hơi thở sâu, cố an ủi:
"Không sao đâu, sắp tới nơi rồi...". Trong khi đó, anh lơ xe thì vần
cái bánh xe lên khỏi một bờ ao đầy sình lầy... Trưa đó, chúng tôi nghỉ lại trong một ngôi làng nhỏ ven đường chờ gắn lại
bánh xe và đốt lại một thùng than mới. Dân nghèo thấy người lỡ đường liền rộng
cửa đón tiếp. Tài xế và lơ xe nằm lăn ra dưới tán cây keo ngáy khò khò. Chiếc xe lại lăn bánh, ì ạch đi trên con đường quốc lộ tiến về hướng Nam.
Tới bến xe Phan Rang thì chiều xuống, xe phải đứng bến nghỉ lại đêm. Ngày nay
thật khó hình dung con đường từ Cam Ranh (Khánh Hòa) tới huyện miền núi Ninh
Sơn (Ninh Thuận, nơi chúng tôi sẽ đến) chỉ trên dưới 80 cây số mà phải đi trong
hai ngày chỉ vì tài xế lo lắng cái xe "trở chứng" lần nữa khi qua chặng
đường dốc, hai bên là rừng cây thưa nhà của quốc lộ 27. Ở bến xe Phan Rang, những chiếc xe đò xếp theo hàng dọc phơi trong nền
chiều những màu sơn rợ cũ, những chiếc mui đầy nhóc hàng hóa của người buôn
chuyến và các thùng than gỉ sét cồng kềnh còn hừng hực nóng sau các lộ trình nhọc
nhằn liên tỉnh miền Trung. Đất dậy mùi khai của nước tiểu, của dịch ói mà hành
khách đi xe đựng trong bọc ni lông và quăng vô tội vạ, của mùi rau quả hư mà
thương lái lọc bỏ vứt ở mấy đống rác ở ngay lối vào... Len lách giữa những chiếc xe đò còm cõi còn hừng hừng hơi nóng từ bình đựng
than là tiếng rao chao chát cuối ngày: "Ai nước chì đây" (Ai nước chè
đây) của những đứa bé mặt mày đen nhẻm đi bán nước rong. Đêm đến, một manh chiếu được trải ra ngay dưới bình than, chiếc mùng lính
bằng vải dù - kỷ vật mà ông ngoại tặng ba mẹ tôi khi xa quê Cam Ranh - được
giăng bốn góc. Bọn trẻ sau bữa cơm tạm bợ ôm nhau đánh giấc mê mệt. Còn người lớn,
có lẽ đã thức canh cho đến khi trời sáng, chờ thùng than được khơi lên cho chặng
còn lại của hành trình đến "đất hứa"... Cứ chạy một đoạn, tài xế lại phải tấp vào bên con đường đầy xương rồng và
ruộng cạn để anh lơ xe châm thêm than củi. Mỗi bình than nung đốt sẽ duy trì
nhiệt lượng cho chiếc xe chạy được chừng ba bốn mươi phút, rồi xe lại cà khật
cà khật chạy rì rì như người đã kiệt sức.
Nhận xét
Đăng nhận xét