CẨM NANG THỦ ĐOẠN CỦA TRUNG QUỐC
CẨM NANG THỦ ĐOẠN
CỦA TRUNG QUỐC
Giáo sư Trần Ngọc Vương: Tôi sốc khi đọc được cẩm nang thủ
đoạn chính trị của Trung Quốc
Hơn bốn mươi năm qua, Trung Quốc là thế lực duy nhất đe dọa
độc lập chủ quyền, xâm phạm lãnh thổ nước ta. Giáo sư Trần Ngọc Vương - người
đã miệt mài nghiên cứu về Trung Quốc từ tuổi đôi mươi đến nay - nhận định: “Người
Trung Quốc, đặc biệt là giới cầm quyền, luôn tin vào não trạng của mình. Họ
luôn giương đông kích tây, trong đầu luôn có các loại mưu kế. Thậm chí, họ còn
tưởng tượng các tình huống có thể xảy ra và luôn có sẵn “bài” để đối phó với từng
tình huống tưởng tượng đó. Đây là đặc điểm kinh hoàng nhất của giới chính trị
Trung Quốc”. Báo Phụ Nữ TPHCM đã có cuộc trò chuyện với ông.
Họ muốn nhanh chóng hiện thực hóa “Trung Quốc mộng”
Phóng viên:
Năm 2009, Trung Quốc
xuất bản cuốn “Trung Quốc mộng”, tác giả là đại tá Lưu Minh Phúc, một giáo sư của
Đại học (ĐH) Quốc phòng Bắc Kinh. Những hành vi quấy phá của Trung Quốc ở Biển
Đông cũng tăng dần đều từ năm 2009. Nhân vật này có vai trò gì trong việc Trung
Quốc đẩy mạnh các hành vi phi pháp đó không, thưa giáo sư?
Giáo sư Trần Ngọc Vương:
Có hai cuốn sách của Trung Quốc cần được nhắc đến, là “Tô
tem sói” (Lang đồ đằng, tác giả Khương Nhung) và “Trung Quốc mộng”. Cả hai cuốn
đều được quảng cáo và phát hành hết sức rầm rộ. “Tô tem sói” được viết dưới dạng
tiểu thuyết nhưng thực chất đó là khảo cứu mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa. Tác
giả xác định căn tính của người Trung Quốc là căn tính sói - một loài ranh
mãnh, thủ đoạn, độc ác nhất trên cả thảo nguyên, bình nguyên và cao nguyên. Nhiều
năm liền, Trung Quốc cho in đi in lại cuốn “Tô tem sói”. Bấy giờ, họ đang muốn
tuyên truyền một tinh thần khác, một không khí khác, đó là tính chiến đấu và
tinh thần quật cường của người dân nước họ.
Còn “Trung Quốc mộng” là hướng tuyên truyền của quân đội.
Hai cuốn sách tuyên truyền hai hướng khác nhau. Xưa nay
Trung Quốc là vậy, luôn đưa ra khả năng này, khả năng kia. “Trung Quốc mộng” vẫn
trên tinh thần vừa thừa tiến, vừa uốn nắn tinh thần của “Tô tem sói”. Song, viết
“Trung Quốc mộng”, Lưu Minh Phúc mới chỉ tiếp cận một góc tham vọng của nhà cầm
quyền. Đọc kỹ thì góc tuyên truyền của Lưu Minh Phúc là duy trì cảm hứng chủ đạo
trong tư tưởng của Đặng Tiểu Bình “thao quang dưỡng hối” (che đi khoảng sáng,
nuôi dưỡng cái tù mù, không muốn minh bạch, rõ ràng với thế giới) và “trỗi dậy
một cách hòa bình”.
@ Với xuất phát điểm
không ít khó khăn, việc Trung Quốc vươn lên, trở thành quốc gia có nền kinh tế
lớn thứ hai thế giới thực sự là kỳ tích. Trong “thiết kế” của Đặng Tiểu Bình,
“trỗi dậy một cách hòa bình” là một trong những cảm hứng chủ đạo. Nhưng những gì
Trung Quốc hành xử trên Biển Đông trong hơn 10 năm qua cho thấy rõ là họ đã
cách ly từng bước “thiết kế” của ông Đặng?
Giáo sư Trần Ngọc Vương:
Sau hai thập niên tham gia định hình những chính sách
quan trọng nhất của Trung Quốc và được ủng hộ, nhà tư tưởng của Trung Quốc hiện
nay là Vương Hỗ Ninh. Đây là một nhà nghiên cứu chính trị chuyên nghiệp, hiện
là một trong bảy Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ông
ta thiết kế một đường hướng khác Đặng Tiểu Bình, vừa tiếp tục nhưng lại vừa điều
chỉnh, thay đổi. Từ năm 2007, trên đỉnh cao nhất của nhóm làm chiến lược, đã bắt
đầu thay đổi. Sự thay đổi từ Giang Trạch Dân, qua Hồ Cẩm Đào, tới Tập Cận Bình
dựa vào Vương Hỗ Ninh là sự điều chỉnh có kế hoạch. Vương Hỗ Ninh thấy, phát
triển theo cách Đặng Tiểu Bình đề nghị thì chậm. Ông ta muốn “đi” nhanh hơn, muốn
thu hoạch nhiều hơn từ nhiều hướng khác nhau, do đó chấp nhận sự đa tạp của
tình hình.
Người Trung Quốc, đặc biệt là giới cầm quyền luôn tin vào
“trực giác định hướng” của mình. Họ thường giương đông kích tây, trong đầu luôn
có các loại mưu kế. Thậm chí, họ còn tưởng tượng các tình huống có thể xảy ra,
và luôn có sẵn “bài” để đối phó với từng tình huống tưởng tượng đó. Đây là đặc
điểm phức tạp nhất để hiểu giới làm chính trị cực quyền, thượng đỉnh của Trung
Quốc.
Con người không được mang ý thức về sinh mệnh
@ Mô hình ông vua -
thiên tử độc nhất thế giới, cùng căn tính sói của dân tộc (như họ tự nhận) khiến
chính quyền của Trung Quốc có những đặc điểm gì riêng biệt, thưa giáo sư?
Giáo sư Trần Ngọc Vương:
Mô hình quyền lực
tối cao ở Trung Quốc hầu như không có yếu tố tôn giáo mà chỉ duy trì biểu tượng
thần quyền (đến một ngưỡng cần thiết cho tuyên truyền ở một mức độ nhất định).
Nói cho cùng, mọi tôn giáo đích thực đều có giá trị cứu rỗi cho con người, kể cả
những người cầm quyền tối thượng (như việc hoàng đế Napoléon Bonaparte vẫn cần
sự có mặt của Giáo hoàng trong lễ lên ngôi).
Nhưng thể chế truyền thống của Trung Quốc thì khác, hoàng
đế lên ngôi, tự lập đàn tế trời, tự công bố với thiên hạ, hành xử hoàn toàn
nhân danh trời và đồng nhất trời với bản thân. Quyền lực của hoàng đế Trung Quốc
không chịu “lép” bởi quyền lực tôn giáo, không có tín ngưỡng, cho nên mục đích
của thể chế ấy cũng như phương tiện của họ là tính hiện thế. Tinh thần cực quyền
của họ thể hiện rất rõ.
Người Trung Quốc có những chuyện kỳ dị mà nếu không phải
người cầm quyền tối cao, không phải là những người tột cùng tham vọng thì không
thể hiểu được, hoặc không đủ sức để đảm đương gánh nặng tâm lý ấy. Những người
như Phạm Lãi (công thần của Câu Tiễn, ông vua nước Việt tại vị từ năm 496 - 465
trước Công nguyên) xưa hay Chu Ân Lai hiện đại đều không thể đeo đẳng mẫu người
đó.
Sở dĩ Phạm Lãi sống được là do ông ta không theo mô hình
đó (sau khi không khuyên được Câu Tiễn, Phạm Lãi bỏ đi biệt tích). Sở dĩ trong
mấy trăm người từng là lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Trung Quốc bị thanh
trừng, một mình Chu Ân Lai tránh được, là bởi ông ta thuyết phục Mao Trạch Đông
chỉ ở một điểm, đó là tiếng “nói thầm” luôn được nhắc đi nhắc lại: “Tôi không
tranh, không bao giờ định tranh vị trí độc nhất với ông”.
Đặc điểm quyền lực bằng mọi giá của thiết chế chuyên chế
này cũng là đặc điểm hàng đầu. Một đặc điểm không nơi thứ hai nào có nữa, đó là
sự coi rẻ, vô hiệu hóa mạng người, vô nghĩa hóa thân phận mỗi người và bất cứ
cá nhân nào. Không cần nói đến những chuyện cả thế giới hiện nay đang lên án,
chỉ cần nói về nguồn gốc chiếc bánh bao trong lịch sử của họ: tiến xuống phía
Nam là khó khăn lớn với những người sống ở Trung Nguyên. Cuộc hành quân của họ
vấp phải những sơn hệ - thập vạn đại sơn, đặc biệt là Ngũ Lĩnh.
Người Trung Quốc luôn e ngại khi phải vượt qua năm ngọn
núi đó. Đánh phương Nam là một trong những nỗi kinh hoàng cay cực của lính
phương Bắc. Người lính của họ được giáo dục, tuyên truyền chuẩn bị tinh thần sẵn
sàng giết, đồng thời cũng sẵn sàng chết. Cái chết thì được tô vẽ bằng chủ nghĩa
anh hùng, “da ngựa bọc thây”, “nhẹ tựa lông hồng”. Còn đối thủ, đối phương thì
cần bị “ăn gan, uống máu”.
Để “Nam chinh”, vì không biết phương tiện, điều kiện ra
sao nên họ phải tích trữ lương khô mang theo. Nấu ăn cũng khó, nên loại bánh phổ
biến họ làm là lương khô, vừa gọn nhẹ, vừa dễ sử dụng. Ngay từ thời ấy, họ đã
giáo dục cho người lính phương Bắc của họ tinh thần vừa căm thù, vừa quyết tâm:
ăn bánh “man đầu” (tức bánh bao) là ăn đầu người Nam man, tức cộng đồng Bách Việt.
Trong lịch sử chiến tranh ở Trung Quốc xưa, số binh lính
thường được huy động lên tới vài chục đến vài trăm vạn. Vậy mà, như một nhà thơ
đời Đường đã “ráo hoảnh”: “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” - xưa nay ra trận mấy
ai về. Phong cách thực thi chiến tranh nổi tiếng của Trung Quốc, nổi tiếng từ
xưa trên toàn thế giới, là “chiến thuật biển người”, “lấy thịt đè người”.
Mạng người, bất kể là mạng của ai, trừ người nắm quyền tối
cao, đều có thể trở nên vô nghĩa. Kể từ ngày lập nên nhà nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa năm 1949, nghĩa là “thời bình”, không loạn lạc, không chiến tranh, mà
theo nhiều nhà nghiên cứu cả trong lẫn ngoài Trung Quốc, số người chết không phải
tự nhiên, mà chết do “nhân tai” - lỗi của người cai trị - lên đến cả trăm triệu
người. Riêng nạn đói xảy ra vào những năm 1958-1961 trong và sau phong trào Đại
dược tiến (đại nhảy vọt), theo nhiều tài liệu khác nhau, đã làm chết từ 37 -
43,5 triệu người.
@ Không chỉ nghiên
cứu Trung Quốc, giáo sư còn có thời gian giảng dạy ở ĐH Bắc Kinh. Đặc điểm nào
của con người sống trên đất đó khiến ông nhớ nhất?
Giáo sư Trần Ngọc Vương:
Thân phận con người! Sau hơn 20 năm nghiên cứu Trung Quốc,
năm 1998, lần đầu tiên, tôi mới có những ngày sống trên đất nước này. Tôi sang
dạy ở trường đại học lớn nhất của họ với tư cách là chuyên gia hàng đầu, hưởng
bậc lương rất cao. Nhưng cách xử sự của họ thì… kể ra cho hết, thật lắm chuyện
khôi hài.
Nói vậy để thấy rằng, một vị trí như mình, khách mời (mà
là “quốc khách”, vì bấy giờ tôi sang dạy bằng giấy mời của Quốc vụ viện, đóng dấu
quốc huy hẳn hoi) như mình mà còn vậy.
Tôi dạy ở Bắc Kinh, sống ở Bắc Kinh và quan sát thì cảm
nhận rất rõ rằng, con người ở đó không có ý thức về sinh mệnh hay thân phận.
Cái gọi là “nhân thân” ở đây vô nghĩa. Không ai quan tâm, không ai muốn, không
ai cần biết anh là ai; anh cũng chỉ như cái cây, ngọn cỏ ven đường. Họ chỉ cần
biết người đó là da đen hay da trắng, là người giống họ hay không. Đó là lần đầu
tiên tôi đến một cộng đồng mà cảm giác sự vô nghĩa của thân phận cá nhân rõ
ràng đến vậy.
Bí mật về cuốn kỳ thư
@ Ông tiếp xúc với cuốn “Phản kinh”, chính là
trong chuyến đi đó?
Giáo sư Trần Ngọc Vương:
Sang Bắc Kinh, tôi
đi lang thang xem sách thì cuốn sách có tiêu đề “Phản kinh” đập vào mắt. Đó là
lần đầu tiên tôi biết có cuốn đó. Tôi cầm lên, thấy chữ khó đọc, giấy xấu, tên
tác giả lại không đọc được, chữ rất lạ (họ Triệu thì đọc được), lại của một nhà
xuất bản (NXB) hầu như không có tên tuổi gì - NXB Nội Mông.
Tôi đọc phần giới thiệu, họ viết rất rõ: “Lịch đại thống
trị giả hành nhi bất ngôn dụng nhi bất tuyên đích kỳ thư”. Có nghĩa, đây là cuốn
kỳ thư mà kẻ thống trị các đời làm theo nhưng không nói, dùng nhưng không công
bố. Tôi giật mình, sách này là sách cấm, riêng phần giới thiệu đã thấy kinh
hoàng. Hơn một ngàn năm, sách chỉ dành cho tầng lớp cao nhất của bộ máy cai trị.
Dưới thời Minh, Thanh, ai đọc sách cấm mà bị phát hiện là phạm tội đại hình, bị
giết. Và đó cũng là lần đầu tiên, người Trung Quốc biết đến Phản kinh một cách
rộng rãi.
Tôi chép tên tác giả ra giấy mang đi hỏi một giáo sư của
ĐH Bắc Kinh, ông này không biết. Ngày ĐH Bắc Kinh tổ chức kỷ niệm 100 năm thành
lập ở Đại lễ đường nhân dân, riêng ô tô chở chuyên gia của họ là 80 xe. Ông ấy
mang đi hỏi khắp, cũng không ai biết, vì người giỏi chữ Hán nhất Trung Quốc
cũng chỉ biết đến 85% lượng chữ. Ông rất tức, dành mấy ngày để tra các loại từ
điển thì tìm được tên tác giả là Nhuy (chữ Nhuy thực ra là phần đuôi của một từ
có tính chất từ láy nên hiếm gặp). Tác giả đỗ tiến sĩ thời Trung Đường. Viết
xong bộ sách này, Triệu Nhuy vào gặp vua một lần, dâng cho vua bộ sách và từ chối
tất cả những lời ban khen, phong tặng, xin lui về quê rồi biệt tăm không ai biết.
Từ đời Đường, qua Tống, Nguyên, Minh, Thanh, cuốn sách ấy
chỉ được nằm trong bí thư các (gác chứa sách) của vua, cũng không đưa xuống tứ
khố toàn thư. Đến tận đời Càn Long, ông mới sai những đại học sĩ sao chép ra
vài bản, phân hạng mục trong tứ khố toàn thư nhưng vẫn không lưu hành ra ngoài.
Đích thân Càn Long đề tựa cho cuốn sách và đổi tên. Đại học giả nổi tiếng nhất
của đời Càn Long là Kỷ Hiểu Lam hiệu đính cuốn sách. Và văn bản cuối cùng đó
chính là văn bản mà NXB Nội Mông in.
@ Vai trò, tính chất
của “Phản kinh” đối với nhà cầm quyền Trung Quốc là gì thưa giáo sư?
Giáo sư Trần Ngọc Vương:
Tôi đọc và thấy tác giả đã cảnh báo rất đích đáng. Bộ
sách này không phải nhà cầm quyền tối cao nào cũng đọc được, mà phải là người cực
giỏi, nếu không thì rất tai hại. Vì đó là những thủ đoạn kinh khủng nhất của giới
cầm quyền. Cũng vì thế mà khi từ Bắc Kinh về, tôi đã tìm mọi cơ hội để dịch cuốn
sách đó, nhưng tiếc là hầu như không ai quan tâm. Giờ thì đã có bản dịch rồi.
@ Khi tiếp cận “Phản
kinh”, cảm giác của ông ra sao?
Giáo sư Trần Ngọc Vương:
Tôi sốc. Triệu Nhuy kể theo lối nửa hư nửa thực, có nhiều
yếu tố như Trang Tử, huyễn hoặc biến ảo, thật giả lẫn lộn. Anh đọc, anh tin có
thật thì nó là thật, bởi những chuyện ông ấy kể không ai xác minh được. Tôi nhớ
nhất câu chuyện kể về Phạm Lãi, với những chi tiết rất lạ. Việc Phạm Lãi bỏ đi,
có những lời đồn thổi khác nhau. Nào là ông “cộng Tây Thi phiếm chu du Ngũ hồ”
(cùng đại mỹ nhân Tây Thi rong ruổi Ngũ hồ), nào là lời đồn ông ấy đến một nơi,
lập nơi đó thành Đào Nguyên rồi trở thành một thương gia vô cùng giàu có.
Và Triệu Nhuy kể theo hướng này: Phạm Lãi sống độc lập,
không theo một “chủ mới” nào. Ông có ba đứa con. Đứa thứ hai sang nước Sở, ở đó
đã phạm tội đại hình, bị bắt giam, xử chết. Phạm Lãi có một người bạn ở nước Sở
rất được vua Sở tin nghe, nên ông nghĩ đến việc cầu cứu bạn. Phạm Lãi chuẩn bị
một lượng tiền vàng lớn cho việc gặp người bạn kia.
Con cả và con út của Phạm Lãi đều đòi đi. Ông muốn giao
việc cho con út nhưng người con cả bảo nó lớn hơn, khôn hơn, nó lại là trưởng,
chịu trách nhiệm gia tộc nên phải để nó đi. Phạm Lãi không đồng ý, cậu cả dọa tự
tử vì cho rằng bố không tin mình là việc ảnh hưởng đến thanh danh, và Phạm Lãi
phải nhượng bộ.
Người bạn của Phạm Lãi nhận thư, trả lời sẽ giúp. Cậu cả
về quán trọ chờ. Ông kia vào nói với vua: “Việc thi hành những án lớn là chấn động
đến cả tâm linh, cả thiên hạ; nếu làm phúc, đại xá được thì rất tốt”. Vua nghe.
Hôm sau ban bố đại xá thiên hạ. Cậu cả nghe tin đó lẳng lặng mang hết tiền về
quán trọ, không vào gặp ông kia nữa.
Ông bạn Phạm Lãi chờ mấy ngày không thấy cậu ta quay lại,
biết ngay cậu này tiếc của (trong thư, Phạm Lãi viết rõ việc cảm ơn). Ông ta
thay đổi cách ứng xử, vào nói lại với vua: “Hôm trước, tôi có tâu với chúa công
việc đại xá, giết nhầm người đúng là oan, nhưng không trừng phạt đúng người phạm
tội đại nghịch, đại ác cũng là họa”.
Và ngày hôm sau, cậu cả đi nhặt xác em đưa về. Về đến
nhà, đã thấy Phạm Lãi chuẩn bị đầy đủ để làm ma cho đứa con thứ hai. Cậu cả hỏi
vì sao cha biết, ông không trả lời, tỏ ra buồn rầu. Sau, ông cho một số người tâm
phúc nhất biết, khi họ hỏi “thằng cả đi, thằng hai còn chết, thì làm sao thằng
út đi mà cứu được?”. Phạm Lãi nói: “Khi tôi buộc phải cho thằng cả đi, tôi đã
biết nó sẽ thất bại và thằng thứ hai phải chết. Là vì thằng cả sống với tôi từ
thuở hàn vi, nó biết khổ, biết nhục, biết thiếu tiền là như thế nào, nên nó tiếc
tiền. Còn thằng út sinh sau, khi tôi đã giàu, nó lớn lên trong nhung lụa nên nó
sẽ mang ngay tiền đến nhà ông bạn tôi mà không do dự”.
Người ta lại hỏi, bạn ông như thế là không chí tình? Phạm
Lãi trả lời: “Ông ấy biết, nếu thằng thứ hai không gặp biến cố này thì kiểu gì
nó cũng là thằng hư hỏng, nên phải có sự trừng phạt. Ông ấy cũng biết thằng anh
tham lam, bỉ lậu, nếu không có bài học xương máu đúng nghĩa này thì nó sẽ không
thể tỉnh. Tôi nhờ ông ấy là quan hệ tình thân, nhưng còn cái gọi là thiên lý,
ông ấy cũng không vì tình thân mà làm trái lẽ trời”. Tất cả mọi người nghe xong
đều ngỡ ngàng, vì mọi sự xảy ra như thế nào, từ lâu đã nằm trong sự tính toán của
Phạm Lãi.
Khi đọc xong chuyện đó, tôi thấy kinh hoàng! Mới thấy tư
duy của Trung Quốc lạ và biến ảo khôn lường.
@ Cảm ơn giáo sư!
----------------------------
Thế kỷ XIX, dưới thời nhà Thanh, Trung Quốc bị tám cường
quốc của thế giới đánh phá, chia nhau đô hộ. Trung Quốc trở thành nước bán thuộc
địa. Họ gọi đó là thế kỷ quốc nhục, bị xâu xé, các khu vực hay thành phố bị
chia thành các khu tô giới (là phần đất nằm trong một quốc gia có chủ quyền
nhưng lại bị một thực thể khác quản lý, Thượng Hải là trường hợp điển hình). Do
đó, họ phải khẳng định lại khát vọng thống trị thế giới chứ không bao giờ chịu
để người khác thống trị.
Đội ngũ các nhà nghiên cứu của họ đã nhìn nhận lại toàn bộ
lịch sử của cả Trung Quốc và lịch sử thế giới. Họ nhận ra, tám cường quốc chia
nhau xâu xé họ chủ yếu là đánh vào từ đường biển. Và họ cũng đủ tri thức để dần
dần nhận ra được rằng, từ thế kỷ XVI, quốc gia nào muốn phát triển chủ nghĩa tư
bản, trở thành cường quốc kinh tế, trở thành thực dân thì trước hết phải là cường
quốc biển. Đây cũng là một trong những lý do khiến Trung Quốc quyết thực hiện bằng
được dã tâm biến Biển Đông thành ao nhà của họ.
UÔNG NGỌC - Báo Phụ Nữ TPHCM
Trong bối cảnh đó, chúng ta có thoát ra được không, theo ông?
Tôi cho rằng, bị ràng buộc và lệ thuộc vào Trung Quốc không phải là định mệnh của dân tộc ta. Vì trong cái vành đai văn hoá Hán truyền thống thì Nhật Bản, Hàn Quốc có bị thế đâu? Ngay Triều Tiên bây giờ cũng đang vùng vằng thoát ra khỏi Trung Quốc. Những nước thoát ra được gần như đều trở thành nước công nghiệp lớn.
Việt Nam từ hàng nghìn năm nay rõ ràng vẫn độc lập với Trung Quốc, và khi bắt đầu có chủ nghĩa đế quốc, thực dân thì thế giới bị đa cực hoá, do đó việc gắn, trói vào một cực càng không phải là định mệnh. Tuy nhiên, Trung Quốc thì rõ ràng không muốn nhìn thấy một Việt Nam mạnh, càng không muốn nhìn thấy một Việt Nam độc lập hoàn toàn với Trung Quốc mà chỉ muốn Việt Nam lệ thuộc, là chư hầu. Vấn đề còn lại ở đây là bản lĩnh, thái độ, trách nhiệm của người lãnh đạo với dân tộc. Chúng ta có làm được điều đấy không? Tôi nghĩ làm được.
Địa chính trị của ta ở cạnh một nước “lớn mà chơi không đẹp” thì cách ứng xử nên như thế nào, thưa ông?
Một điều phải thuộc nằm lòng là chúng ta cần học tập họ và hữu nghị với họ, đấy là những mệnh đề không thể khác được. Nền văn minh Trung Hoa là một nền văn minh vĩ đại, rực rỡ, rất nhiều thành tựu. Cha ông ta từng làm học trò của nền văn minh ấy. Và ngày nay không thiếu phương diện chúng ta vẫn tiếp tục là học trò. Về quan hệ quốc tế, hai nước có chung một đường biên giới dài như vậy, không muốn hữu nghị cũng không được. Nhưng mà luôn luôn nhớ rằng đấy là một nước lớn vô trách nhiệm và cư xử bẩn tính. Cộng sinh với họ rất mệt mỏi nhưng vẫn phải kiên trì vì đó là điều tất yếu, không thể khác. Chúng ta phải khẩn trương củng cố nội lực, kiện toàn tư chất, phẩm giá dân tộc… mới có đủ sức mạnh đối đầu cạnh tranh với họ. Với Trung Quốc, không bao giờ được ảo tưởng, cũng không bao giờ được mỏi gối chùn chân. Người Trung Quốc buộc ta luôn phải cảnh giác.
Nhận xét
Đăng nhận xét