ĐỒNG CHÍ B. NÓI VỀ ÂM MƯU CHỐNG VIỆT NAM CỦA BÈ LŨ PHẢN ĐỘNG TRUNG QUỐC
ĐỒNG CHÍ B. NÓI VỀ ÂM MƯU CHỐNG VIỆT NAM
CỦA BÈ LŨ PHẢN ĐỘNG TRUNG QUỐC
Biên
dịch: Bùi Xuân Bách
Lời
giới thiệu: Tài liệu dưới đây được dịch từ cuốn Đằng sau tấm màn tre
– Trung Quốc, Việt Nam và Thế giới ngoài châu Á (Behind the Bamboo Curtain
– China, Vietnam, and the World beyond Asia), do Priscilla Roberts biên tập,
Trung tâm Woodrow Wilson và Đại học Stanford xuất bản, 2006. Phần III chương 14
của cuốn sách có tiêu đề “Lê Duẩn và sự đoạn tuyệt với Trung Quốc”. Phần này gồm
bài giới thiệu khá dài (14 trang, từ trang 453 đến 467) của Tiến sĩ Stein
Tønnesson và bản dịch tài liệu này ra tiếng Anh của Christopher E. Goscha (20
trang, 467-486). Tiến sĩ Stein Tønnesson là học giả nghiên cứu về thời kỳ Chiến
tranh lạnh, trong đó có mối quan hệ giữa Việt Nam với các cường quốc Mỹ, Liên
Xô, Trung Quốc trong giai đoạn này. Ông hiện đang là Giám đốc Viện nghiên
cứu hòa bình quốc tế, Oslo, Na uy và cũng là tác giả cuốnViệt Nam 1946: Chiến
tranh đã bắt đầu ra sao, mà anh Vũ Tường đã giới thiệu trong bài điểm sách đăng
trên talawas blog.
Christopher
E. Goscha hiện đang giảng dạy môn Lịch sử tại American University và Trường Quốc
tế ở Paris. Ông là đồng Giám đốc Nhóm nghiên cứu Việt Nam đương đại, Trường
Khoa học Chính trị, Paris. Gần đây ông có tác phẩm đã in “Mậu dịch vùng biên giới
Việt Nam với Hoa Nam thời đầu chiến tranh” (Asian Survey, 2000) và đã trình luận
án về đề tài Bối cảnh châu Á của cuộc chiến Pháp-Việt tại Trường Cao
đẳng thực hành, thuộc Viện Đại học Sorbonne.
Bài
giới thiệu của Stein Tønnesson có khá nhiều nhận định sắc sảo và chính xác. Rất
tiếc là không đủ thời gian để dịch ra giới thiệu với các bạn, nhưng các bạn có
thể tham khảo bản tiếng Anh tại ĐÂY (trang
273-288).
Lẽ
ra tài liệu từ tiếng Việt, đã được dịch sang tiếng Anh, thế thì còn dịch lại ra
tiếng Việt làm gì. Vấn đề là ở chỗ, như Stein Tønnesson đã nhận xét: “Cho đến
giờ, rất ít tài liệu thuộc loại này được phía Việt Nam cho phép các học giả tiếp
cận.” Vậy thì trong khi chờ đợi tài liệu được bạch hóa, ta dịch ra để cùng đọc,
tuy không thể chính xác bằng bản gốc, nhưng cũng có thể cung cấp cho ta một số
thông tin nhất định. Cũng có bạn đã viết rằng: “Vì bạn dịch tác phẩm từ một
ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác, bạn không bao giờ dịch ngược một tác phẩm
trở về ngôn ngữ nguồn. Không ai làm việc vớ vẩn ấy.” Nhìn chung thì đúng, tưởng
như tiên đề, nhưng thực ra cũng có những lệ ngoại như trong trường hợp này. Việc
“tam sao” này ắt là “thất bổn”, chẳng hạn như bản tiếng Anh dùng chữ “we” thì
trong bản gốc có thể là “chúng ta”, “chúng tôi” mà hai từ này nội hàm cũng đã
khác nhau (không hay có bao gồm người đối thoại hoặc người nghe), lại cũng có
thể là phe ta, quân ta, dân ta v.v… nên chỉ có thể dựa vào ngôn cảnh mà phỏng
đoán. Stein Tønnesson cũng đã chỉ ra: “Chúng ta được biết, Lê Duẩn rất ít khi tự
mình chấp bút và tài liệu mang phong cách khẩu ngữ (khiến cho việc dịch cực kỳ
khó khăn). Rất có thể đây là bản thảo Lê Duẩn đọc cho thư ký ghi, hoặc những đoạn
chi tiết do một cán bộ cấp cao dự buổi nói chuyện này ghi lại.”
Christopher
E. Goscha đã phát hiện tài liệu này trong Thư viện Quân đội ở Hà Nội, chép tay
lại và dịch ra tiếng Anh. Cũng theo Stein Tønnesson: “Văn bản không đề ngày
tháng, và tên tác giả chỉ cho biết là “đồng chí B”. Dù sao, nội dung tài liệu
cho ta thấy, nó được viết năm 1979, có lẽ vào quãng thời gian giữa cuộc tấn
công của Trung Quốc vào Bắc Việt Nam tháng 2-1979 và thời điểm phát hành cuốn
Sách trắng của Bộ Ngoại giao Việt Nam về mối quan hệ Việt – Trung ngày mồng 4
tháng 10 cùng năm. Dường như văn bản được soạn chỉ ít lâu sau quyết định ngày
15 tháng 3-1979 của Đặng Tiểu Bình ngừng cuộc tấn công trừng phạt Việt Nam và
rút quân về nước, nhưng trước khi Hoàng Văn Hoan đào thoát sang Trung Quốc
tháng 7-1979.”
Nếu
tên tác giả chỉ ghi là “đồng chí B” thì sao lại dám khẳng định là Lê Duẩn? Bài
nói chuyện của “đồng chí B” có cho ta biết rằng, trong những cuộc họp của Bộ
Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, ông ta được gọi là anh Ba, một bí danh mà mọi
người đều biết là của Lê Duẩn. Tài liệu cũng nói nhiều đến những cuộc họp cấp
cao với phía Trung Quốc trong đó có cả Mao, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, khi đó
nhân vật B này thường xưng tôi và đại diện cho phía Việt Nam một cách đầy quyền
uy như thế, hẳn chỉ có rất ít người.
Một
nhận xét khác của Stein Tønnesson là “những điều Lê Duẩn nói ra (trong năm
1979) rõ ràng mang sắc thái tức giận”, nhưng về thái độ của Lê Duẩn thì “một
nét ấn tượng của tài liệu này là sự thẳng thắn, bộc trực và cách tác giả đưa vấn
đề ra như là một cá nhân.” Ta đều biết vai trò và vị trí của ông trong Đảng
cũng như trong các sự kiện từ khi được cử làm Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt
Nam rồi Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
Stein
Tønnesson cũng cho rằng khi Lê Duẩn xưng tôi với Hồ Chí Minh thì đó là thái độ
có phần xấc xược, nhưng người dịch không nghĩ như vậy. Nếu bạn đã đi nhiều vùng
trên đất nước ta, hoặc được tiếp xúc với nhiều người từ những địa phương khác
nhau tới, bạn sẽ thấy đó chỉ là một tập quán ngữ dụng của một số nơi chứ không
phải là hỗn hào hay xấc xược. Hoặc cũng có đoạn, khi nói chuyện với Mao, Lê Duẩn
cũng dám “ăn miếng trả miếng”, nhưng người dịch hoài nghi chuyện này, chúng ta
cần phối kiểm với những tài liệu khác nữa.
So
với cuốn Sách trắng của Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam, Sự thật về quan
hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, công bố ngày mồng 4 tháng 10-1979,
tài liệu này cũng không có nhiều điểm khác biệt, trừ một số tình tiết về cách
suy nghĩ và ứng phó của phía Việt Nam. Dẫu sao, theo thiển ý của tôi, thì đây
cũng là một tài liệu quý. Nó cho ta thấy việc ra đời của cuốn Sách trắng đã được
chỉ đạo từ cấp cao nhất.
Vì
thời gian có hạn, lại dịch ngược lại từ tiếng Anh ra Việt trong khi ngôn ngữ
nguồn đã là tiếng Việt, chắc chắn bản dịch còn nhiều thiếu sót. Người dịch cũng
chỉ mong muốn một chữ “tín”, mà chưa dám nghĩ đến “đạt, nhã”. Mong các bạn
thông cảm và đóng góp ý kiến cho. Chúng tôi xin chân thành cảm tạ.
Xin
lưu ý:
–
Dấu ngoặc vuông [ ] là của Christopher E. Goscha.
–
Chúng tôi vẫn giữ nguyên những con số của ghi chú cho phù hợp với trong sách.
*********************************************************
ĐỒNG CHÍ B. NÓI VỀ ÂM MƯU CHỐNG VIỆT NAM
CỦA BÈ LŨ PHẢN ĐỘNG TRUNG QUỐC
Nói
chung, sau khi ta đã thắng Mỹ thì không còn tên đế quốc nào dám đánh ta nữa. Chỉ
có những kẻ nghĩ rằng, họ có thể đánh và dám đánh chúng ta, là bọn phản động
Trung Quốc. Nhưng nhân dân Trung Quốc hoàn toàn không muốn như vậy. Tôi không
rõ bọn phản động Trung Quốc này còn tồn tại bao lâu nữa. Dẫu sao, chừng nào bọn
chúng còn đó thì chúng sẽ tấn công ta như chúng vừa làm gần đây [vào đầu năm
1979]. Nếu chiến tranh đến từ phương Bắc thì các tỉnh [Bắc Trung bộ] Nghệ An,
Hà Tĩnh và Thanh Hóa sẽ trở thành căn cứ cho cả nước. Đó là những căn cứ vững
chắc nhất, tốt nhất và mạnh nhất không gì so sánh được. Vì nếu như vùng đồng bằng
[Bắc bộ] vẫn liên tục căng thẳng như vậy thì tình hình sẽ hết sức phức tạp.
Hoàn toàn không phải là chuyện đơn giản. Nếu không có nhân dân Việt Nam thì sẽ
chẳng có ai dám đánh Mỹ, bởi vì lúc Việt Nam đang đánh Mỹ thì cả thế giới còn lại
sợ Mỹ…(25) Mặc dầu Trung Quốc đã giúp [Bắc] Triều Tiên, nhưng đó chỉ vì mục
đích bảo vệ sườn phía Bắc của họ mà thôi. Sau khi chiến tranh chấm dứt [ở Triều
Tiên] và áp lực chuyển sang Việt Nam, ông ta [có lẽ ám chỉ Chu Ân Lai như những
đoạn tiếp theo sẽ gợi ý] nói rằng, nếu như Việt Nam tiếp tục chiến đấu thì họ sẽ
phải tự lo liệu lấy. Ông ta sẽ không giúp nữa và đã gây sức ép buộc chúng ta phải
ngừng đấu tranh.
Khi
ta ký Hiệp định Giơ ne vơ, chính Chu Ân Lai là người đã chia cắt nước ta ra làm
hai [phần]. Sau khi nước ta bị chia thành hai miền Bắc và Nam như vậy, cũng
chính ông ấy lại ép chúng ta không được đụng chạm gì đến miền Nam. Họ cấm ta
vùng lên [chống lại Việt Nam Cộng hòa được Mỹ ủng hộ]. [Nhưng] họ đã không làm
chúng ta sờn lòng. Khi tôi vẫn còn đang ở trong Nam và đã chuẩn bị phát động
chiến tranh du kích ngay sau khi ký Hiệp định Giơ ne vơ, Mao Trạch Đông đã nói
với Đảng ta rằng, chúng ta cần ép các đồng chí Lào chuyển giao ngay hai tỉnh đã
giải phóng cho chính phủ Viên Chăn (26). Nếu không Mỹ sẽ tiêu diệt họ, một tình
huống hết sức nguy hiểm [theo quan điểm Trung Quốc]. Việt Nam lại phải làm việc
ngay lập tức với phía Mỹ [về vấn đề này]. Mao đã bắt ta phải làm như vậy và
chúng ta cũng đành phải làm như vậy (27).
Rồi
sau khi hai tỉnh giải phóng của Lào đã được bàn giao cho Viên Chăn, bọn phản động
Lào ngay lập tức bắt Hoàng thân Su-pha-nu-vông. Phía các đồng chí Lào có hai tiểu
đoàn lúc ấy đang bị bao vây. Hơn nữa họ chưa sẵn sàng chiến đấu. Sau đó một tiểu
đoàn đã vượt thoát [khỏi vòng vây]. Khi đó tôi đưa ra ý kiến là phải chấp nhận
cho các bạn Lào phát động chiến tranh du kích. Tôi mời phía Trung Quốc đến để
thảo luận việc này với ta. Tôi nói: “Các đồng chí, nếu các anh tiếp tục gây sức
ép với Lào như thế thì lực lượng của họ sẽ tan rã hoàn toàn. Bây giờ họ phải được
phép tiến hành đánh du kích”.
Trương
Văn Thiên (28), người trước kia đã từng là Tổng Bí thư [Đảng Cộng sản Trung Quốc]
và có bí danh là Lạc Phủ, đã trả lời: “Vâng, thưa các đồng chí, điều các đồng
chí nói là đúng. Chúng ta hãy cho phép Tiểu đoàn Lào ấy được đánh du kích”.
Tôi
hỏi Trương Văn Thiên ngay lập tức: “Các đồng chí, nếu các đồng chí đã cho phép
Lào tiến hành chiến tranh du kích, thì đâu có gì đáng sợ nếu phát động chiến
tranh du kích ở miền Nam Việt Nam. Điều gì đã làm cho các đồng chí phải sợ hãi
đến nỗi các đồng chí lại ngăn cản chúng tôi?”
Ông
ấy [Trương Văn Thiên] trả lời: “Không có gì phải sợ cả!”
Đó
là điều Trương Văn Thiên đã nói. Tuy nhiên Hà Vĩ, đại sứ Trung Quốc tại Việt
Nam khi ấy, [và] có mặt lúc đó cũng nghe thấy những điều vừa nói.
Ông
ta đã đánh điện về Trung Quốc [báo cáo những gì đã trao đổi giữa Lê Duẩn và
Trương Văn Thiên]. Mao trả lời ngay lập tức: “Việt Nam không thể làm như vậy được
[phát động chiến tranh du kích ở miền Nam]. Việt Nam nhất định phải trường kỳ
mai phục!” Chúng ta quá nghèo. Làm sao ta có thể đánh Mỹ nếu như chúng ta không
có Trung Quốc là hậu phương vững chắc? [Do đó], chúng ta đành nghe theo họ, có
phải không? (29)
Dẫu
sao thì chúng ta vẫn không nhất trí. Ta bí mật tiến hành phát triển lực lượng của
ta. Khi [Ngô Đình] Diệm kéo lê máy chém đi khắp các tỉnh miền Nam, ta đã ra lệnh
tổ chức lực lượng quần chúng để chống chế độ này và giành lại chính quyền [từ
tay chính phủ Diệm]. Chúng ta không cần để ý đến họ [Trung Quốc]. Khi cuộc đồng
khởi giành chính quyền đã bắt đầu, chúng tôi sang Trung Quốc gặp Chu Ân Lai và
Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình nói với tôi: “Các đồng chí, bây giờ sai lầm của
các anh thành việc đã rồi, các anh chỉ nên đánh ở mức độ trung đội trở xuống.”
Đấy là một kiểu ràng buộc mà họ muốn áp đặt lên ta.
Tôi
nói [với Trung Quốc]: “Vâng, vâng! Tôi sẽ thực hiện như vậy. Tôi sẽ chỉ đánh ở
mức trung đội trở xuống”. Sau khi chúng ta đánh và Trung Quốc nhận ra rằng
chúng ta đã chiến đấu có hiệu quả, Mao đột ngột có đường lối mới. Ông ta nói rằng
trong khi Mỹ đánh nhau với ta, ông ấy sẽ mang quân đội [Trung Quốc] vào giúp ta
làm đường. Mục đích chính của ông ấy là tìm hiểu tình hình Việt Nam để sau này
có thể đánh ta và từ đó bành trướng xuống Đông Nam Á. Không còn lý do nào khác.
Chúng ta biết vậy nhưng phải chấp nhận [việc đưa quân Trung Quốc vào miền Bắc
Việt Nam]. Chuyện này thì cũng được. Họ quyết định đưa quân vào. Tôi chỉ yêu cầu
là họ đưa người không thôi, nhưng quân đội họ vào mang cả súng ống, đạn dược.
Tôi lại đành phải đồng ý.
Sau
đó ông ấy [Mao Trạch Đông] bắt ta tiếp nhận hai vạn quân, đến để làm đường từ
Nghệ Tĩnh vào Nam. Tôi từ chối. Họ vẫn liên tục yêu cầu nhưng tôi không thay đổi
ý kiến. Họ bắt tôi phải cho họ vào nhưng tôi không chấp nhận. Họ tiếp tục gây
áp lực nhưng tôi vẫn không đồng ý. Các đồng chí, tôi đưa ra những ví dụ này để
các đồng chí thấy được âm mưu lâu dài của họ là muốn cướp nước ta, và âm mưu của
họ xấu xa tới chừng nào.
Sau
khi Mỹ đưa vài trăm ngàn quân vào miền Nam, chúng ta đã tiến hành Tổng tiến
công Mậu Thân 1968, buộc chúng phải xuống thang. Để đánh bại đế quốc Mỹ ta phải
biết cách kéo địch xuống thang dần dần. Đó là chiến lược của ta. Chúng ta chiến
đấu chống lại một kẻ địch lớn, có dân số hơn hai trăm triệu người và họ từng thống
trị thế giới. Nếu ta không thể bắt họ xuống thang dần từng bước, thì ta sẽ lúng
túng và không thể tiêu diệt kẻ thù được. Ta phải đánh cho chúng tê liệt ý chí để
buộc chúng đến bàn đàm phán và không cho phép chúng đưa thêm quân vào.
Khi
đã đến lúc họ muốn đàm phán với chúng ta, Hà Vĩ viết thư cho ta nói: “Các anh
không thể ngồi xuống đàm phán với Mỹ được. Các anh phải kéo quân Mỹ vào miền Bắc
mà đánh chúng”. Ông ta đã gây sức ép bằng cách đó, khiến chúng ta hết sức bối rối.
Đó hoàn toàn không phải là chuyện đơn giản. Thật là mệt mỏi mỗi khi những tình
huống tương tự [với Trung Quốc] lại xảy ra.
Chúng
ta đã quyết định rằng không thể làm theo cách đó được [về ý kiến của Hà Vĩ
không nên đàm phán với Mỹ]. Ta đã ngồi xuống ở Paris. Ta đã kéo Mỹ xuống thang
để đánh bại chúng. Trong khi đó Trung Quốc lại tuyên bố [với Mỹ]: “Nếu người
không đụng đến ta thì ta cũng không đụng đến người. Muốn mang bao nhiêu quân
vào Việt Nam, điều đó tùy theo các anh”. Trung Quốc, theo ý của họ, đã làm như
vậy và ép ta làm theo.
Họ
đã tích cực đổi chác với Mỹ và dùng ta làm con bài để mặc cả như thế đấy. Khi
người Mỹ nhận ra rằng họ đã thua, ngay lập tức họ sử dụng Trung Quốc để xúc tiến
việc rút quân ở miền Nam sao cho thuận lợi. Nixon và Kissinger đã đến Trung Quốc
để thảo luận việc này.
Trước
khi Nixon đến Trung Quốc, [mục tiêu chuyến đi này của ông ta] nhằm giải quyết vấn
đề Việt Nam theo chiều hướng có lợi cho Mỹ và giảm thiểu đến tối đa sự thất bại
của họ, đồng thời cho phép ông ta lôi kéo Trung Quốc gần hơn về phía Mỹ, Chu Ân
Lai đã đến gặp tôi. Châu nói với tôi: “Vào lúc này, Nixon sắp đến gặp tôi, chủ
yếu là để thảo luận vấn đề Việt Nam, do đó tôi nhất định phải đến gặp đồng chí
để bàn bạc.”
Tôi
trả lời: “Thưa đồng chí, đồng chí có thể nói bất kỳ điều gì đồng chí muốn,
nhưng tôi vẫn không hiểu. Đồng chí là người Trung Quốc; tôi là người Việt Nam.
Việt Nam là đất nước của [chúng] tôi, hoàn toàn không phải là của các đồng chí.
Đồng chí không có quyền phát biểu [về công việc của Việt Nam], và đồng chí
không có quyền thảo luận [những chuyện đó với Mỹ] (30). Hôm nay, thưa đồng chí,
tôi nói riêng với đồng chí một điều, mà thậm chí tôi chưa từng nói với Bộ Chính
trị của chúng tôi, rằng các đồng chí đã đặt ra một vấn đề nghiêm trọng và vì vậy
tôi cần phải nói:
Năm
1954, khi Việt Nam chiến thắng ở Điện Biên Phủ, tôi đang ở Hậu Nghĩa. Bác Hồ
đánh điện cho tôi, nói rằng tôi cần phải đi Nam để tổ chức lại [các lực lượng ở
đó] và nói chuyện với đồng bào miền Nam [về việc này] (31). Tôi đi xe thổ mộ
xuôi Nam. Dọc đường đồng bào đổ ra chào đón tôi vì họ nghĩ chúng tôi đã chiến
thắng. Thật đau lòng xiết bao! Nhìn đồng bào miền Nam tôi đã khóc. Bởi vì sau
đó Mỹ sẽ nhảy vào miền Nam và tàn sát đồng bào tôi một cách dã man.
Vào
tới nơi, tôi lập tức đánh điện cho bác Hồ yêu cầu được ở lại và không tập kết
ra Bắc, để có thể tiếp tục chiến đấu mười năm nữa hoặc lâu hơn. [Tôi nói với
Chu Ân Lai]: “Thưa đồng chí, đồng chí đã gây ra những khó khăn cho chúng tôi
như vậy đấy [muốn nói đến vai trò của ông ta trong việc chia cắt Việt Nam tại hội
nghị Giơ ne vơ năm 1954]. Đồng chí có biết thế không?”
Chu
Ân Lai đáp: “Tôi xin lỗi các đồng chí. Tôi đã sai. Tôi đã sai trong chuyện này
[ám chỉ việc chia cắt Việt Nam tại Giơ ne vơ] (32). Sau khi Nixon đã đi thăm
Trung Quốc, ông ta [Châu] lại sang Việt Nam một lần nữa để hỏi tôi về một số vấn
đề liên quan đến cuộc chiến đấu trong Nam.
Tuy
nhiên tôi cũng nói ngay với Chu Ân Lai: “Nixon đã gặp các đồng chí. Chẳng bao
lâu nữa họ [Mỹ] sẽ tấn công chúng tôi mạnh hơn”. Tôi hoàn toàn không sợ. Cả hai
bên [Mỹ và Trung Quốc] đã thỏa thuận với nhau nhằm đánh ta mạnh hơn. Ông ấy
[Châu] đã không phản đối quan điểm này là không có cơ sở, và chỉ nói rằng: “Tôi
sẽ gửi thêm súng ống đạn dược cho các đồng chí”. Rồi ông ta nói [về sự e ngại một
âm mưu bí mật giữa Mỹ và Trung Quốc]: “Không có chuyện đó đâu”. Dẫu sao họ cũng
đã thảo luận đánh ta mạnh hơn như thế nào, kể cả ném bom bằng B-52 và phong tỏa
cảng Hải Phòng. Vấn đề rõ ràng là như vậy.
Nếu
Liên Xô và Trung Quốc không bất đồng với nhau thì Mỹ không thể đánh chúng ta một
cách tàn bạo như chúng đã làm. Chừng nào hai nước [Trung Quốc và Liên Xô] còn
xung đột thì người Mỹ sẽ không bị ngăn trở [vì sự phản đối của khối Xã hội chủ
nghĩa thống nhất]. Mặc dầu Việt Nam đã có thể đoàn kết với cả hai nước Trung Quốc
và Liên Xô, nhưng để làm việc này là hết sức khó khăn vì lúc đó chúng ta phải dựa
vào Trung Quốc rất nhiều. Thời gian đó Trung Quốc hàng năm viện trợ cho ta nửa
triệu tấn lương thực, cũng như súng ống, đạn dược, tiền bạc, chưa nói đến cả đô
la nữa. Liên Xô cũng giúp ta tương tự như vậy. Nếu chúng ta không làm được điều
đó [giữ gìn sự thống nhất và đoàn kết với họ] thì mọi chuyện có thể hết sức
nguy hiểm. Hàng năm tôi phải sang Trung Quốc hai lần để trình bày với họ [ban
lãnh đạo Trung Quốc] về các diễn biến ở trong Nam. Còn với Liên Xô, tôi không cần
phải nói gì cả [về tình hình miền Nam]. Tôi chỉ nói chung chung. Khi làm việc với
phía Trung Quốc, tôi phải nói rằng cả hai chúng ta đang cùng đánh Mỹ. Tôi đã đi
(sang đấy) một mình. Tôi phải tham dự vào những chuyện đó. Tôi phải sang Trung
Quốc và bàn bạc với họ nhiều lần như vậy với mục đích chính là thắt chặt quan hệ
song phương [Trung Quốc và Việt Nam]. Chính vào lúc đó Trung Quốc ép chúng ta
phải tách xa khỏi Liên Xô, cấm ta không được đi cùng với Liên Xô nữa (33).
Họ
làm rất căng thẳng chuyện này. Đặng Tiểu Bình, cùng với Khang Sinh (34), đến
nói với tôi: “Đồng chí, chúng tôi sẽ giúp các anh vài tỷ (Nhân dân tệ) một năm.
Các anh không được nhận gì từ Liên Xô nữa.”
Tôi
không chấp nhận như vậy. Tôi nói: “Không, chúng tôi nhất định phải đoàn kết và
thống nhất với toàn phe Xã hội chủ nghĩa.” (35)
Năm
1963, khi Nikita Khơrútxốp có sai lầm, Trung Quốc lập tức ra Cương lĩnh 25 điểm
và mời Đảng ta đến và góp ý kiến. Anh Trường Chinh và tôi cùng đi với một số
anh em khác. Trong khi bàn bạc, họ [Trung Quốc] lắng nghe ta chừng mười điểm gì
đó, nhưng khi tới ý kiến “không xa rời phe Xã hội chủ nghĩa” (37) thì họ không
nghe nữa… Đặng Tiểu Bình nói: “Tôi chịu trách nhiệm về văn bản của chính tôi.
Tôi xin ý kiến các đồng chí nhưng tôi không chấp nhận điểm này của các đồng chí.”
Trước
khi đoàn ta về nước, Mao có tiếp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi trò chuyện
cùng chúng tôi và đến cuối câu chuyện ông ta tuyên bố: “Các đồng chí, tôi muốn
các đồng chí biết việc này. Tôi sẽ là Chủ tịch của 500 triệu bần nông và tôi sẽ
mang một đạo quân đánh xuống Đông Nam Á.” (38) Đặng Tiểu Bình cũng ngồi đó và
nói thêm: “Đó chủ yếu là vì bần nông của chúng tôi đang ở trong một hoàn cảnh hết
sức khó khăn!”
Khi
chúng tôi đã ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Anh thấy đấy, một âm mưu
cướp nước ta và cả Đông Nam Á. Bây giờ chuyện đã minh bạch.” Họ dám ngang nhiên
tuyên bố như vậy. Họ nghĩ chúng ta không hiểu. Rõ ràng là không một phút nào họ
không nghĩ tới việc đánh Việt Nam!
Tôi
sẽ nói thêm để các đồng chí có thể thấy rõ hơn tầm quan trọng quân sự của việc
này. Mao hỏi tôi:
–
Lào có bao nhiêu cây số vuông?
Tôi
trả lời:
–
Khoảng 200 nghìn [cây số vuông].
–
Dân số của họ là bao nhiêu? [Mao hỏi]
–
[Tôi đáp:] Gần ba triệu.
–
[Mao nói:] Thế thì cũng không nhiều lắm! Tôi sẽ mang người của chúng tôi xuống
đấy!
–
[Mao hỏi:] Thái Lan thì có bao nhiêu cây số vuông?
–
[Tôi trả lời:] Khoảng 500 nghìn.
–
Và có bao nhiêu người? [Mao hỏi]
–
Gần 40 triệu! [Tôi đáp]
–
Trời ơi! [Mao nói], tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có 500 nghìn cây số vuông mà
có tới 90 triệu dân. Tôi sẽ lấy thêm một ít người của chúng tôi đi xuống đấy nữa
[Thái Lan]!
Đối
với Việt Nam, họ không dám nói thẳng về việc di dân như vậy. Tuy nhiên, ông ta [Mao]
nói với tôi: “Các đồng chí, có thật người Việt Nam đã chiến đấu và đánh bại
quân Nguyên không?” Tôi nói: “Đúng.” “Thế có thật là các anh cũng đánh bại cả
quân Thanh nữa phải không?” Tôi đáp: “Đúng.” Ông ta lại hỏi: “Và cả quân Minh nữa,
đúng không?” Tôi trả lời: “Đúng, và cả các ông nữa. Tôi sẽ đánh bại cả các ông.
(39) Ông có biết thế không?” Tôi đã nói với Mao như vậy đó. Ông ấy nói: “Đúng!
Đúng!” Mao muốn chiếm Lào, cả nước Thái Lan… cũng như muốn chiếm toàn vùng Đông
Nam Á. Mang người đến ở đó. Thật là phức tạp.
Trong
những năm trước [về các vấn đề có thể nảy sinh từ mối đe dọa của Trung Quốc
trong những thời kỳ đó], chúng ta đã có sự chuẩn bị tích cực chứ không phải
chúng ta không chuẩn bị gì. Nếu chúng ta không chuẩn bị thì tình hình vừa qua
đã có thể rất nguy. Đó không phải là chuyện đơn giản. Mười năm trước tôi đã có
mời anh em bên quân đội đến gặp tôi. Tôi nói với họ rằng Liên Xô và Mỹ đang có
mâu thuẫn với nhau. Còn Trung Quốc, họ lại bắt tay với đế quốc Mỹ. Trong tình
hình căng thẳng như vậy các anh phải lập tức nghiên cứu vấn đề này. Tôi sợ bên
quân đội anh em chưa hiểu nên tôi nói thêm rằng không có cách nào khác để hiểu
vấn đề này. Nhưng họ phát biểu rằng chuyện này rất khó hiểu. Đúng là không dễ
dàng chút nào. Nhưng tôi không thể nói cách khác được. Và tôi cũng không cho
phép ai căn vặn mình. (40)
Khi
tôi đi Liên Xô, họ cũng rất cứng rắn với tôi về Trung Quốc. Liên Xô đã triệu tập
một hội nghị 80 đảng [Cộng sản] để ủng hộ Việt Nam, nhưng Việt Nam không tham dự
hội nghị này, vì [hội nghị] không chỉ nhằm giúp đỡ Việt Nam mà còn dự định lên
án Trung Quốc. Do đó Việt Nam đã không đi. Phía Liên Xô hỏi: “Các anh đã từ bỏ
chủ nghĩa quốc tế rồi hay sao? Tại sao các anh lại làm như vậy?” Tôi đáp: “Tôi
hoàn toàn không từ bỏ chủ nghĩa quốc tế. Tôi chưa hề làm như vậy. Tuy nhiên, muốn
là người theo chủ nghĩa quốc tế thì trước hết phải đánh bại đế quốc Mỹ. Và nếu
người ta muốn đánh Mỹ thì phải thống nhất và đoàn kết với Trung Quốc. Nếu tôi
đi dự hội nghị này thì Trung Quốc sẽ gây ra những khó khăn nghiêm trọng cho
chúng tôi. Xin các đồng chí hiểu cho.”
Ở
Trung Quốc có rất nhiều ý kiến khác nhau và đang tranh cãi. Chu Ân Lai đồng ý
xây dựng cùng Liên Xô một mặt trận chống Mỹ. Một lần tôi đến Liên Xô dự lễ Quốc
khánh, tôi có được đọc một bức điện của Trung Quốc gửi Liên Xô nói rằng “nếu
Liên Xô bị tấn công thì Trung Quốc sẽ kề vai sát cánh cùng Liên bang Xô viết.”(41)
Đó là nhờ Hiệp ước hữu nghị Xô – Trung được ký kết trước đây [tháng 2-1950]. Ngồi
cạnh Chu Ân Lai tôi hỏi ông ấy: “Trong bức điện mới đây gửi Liên Xô, các đồng
chí đã đồng ý cùng với Liên Xô thành lập một mặt trận, nhưng tại sao các đồng
chí lại không thành lập một mặt trận chống Mỹ?” Chu Ân Lai đáp: “Chúng tôi có
thể. Tôi đồng tình với quan điểm của đồng chí. Tôi sẽ thành lập một mặt trận với
các đồng chí [về Việt Nam]. Bành Chân (42) cũng đang ngồi đó, nói thêm: “Ý kiến
này cực kỳ đúng đắn!” Nhưng khi vấn đề được đưa ra thảo luận ở Thượng Hải, Mao
nói rằng không thể được và gạt bỏ ý kiến này. Các đồng chí đã thấy vấn đề phức
tạp ra sao.
Mặc
dầu Chu Ân Lai có bảo lưu một số ý kiến, dẫu sao ông cũng đã đồng ý thành lập một
mặt trận và đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều. Chính nhờ ông mà tôi hiểu [nhiều
chuyện đang diễn ra ở Trung Quốc]. Nếu không thì có thể rất nguy hiểm. Có lần
ông ấy nói với tôi: “Tôi phải làm hết sức mình để sống sót ở đây, dùng Lý Cường
(43) để tích lũy và cung cấp viện trợ cho các đồng chí.” Và thế đấy [ám chỉ
Châu đã có thể dùng Lý Cường vào việc giúp đỡ Việt Nam]. Tôi hiểu rằng nếu
không có Chu Ân Lai thì không thể có được sự viện trợ như vậy. Tôi thật biết ơn
ông ta.
Tuy
nhiên cũng không đúng, nếu nói rằng những người khác trong ban lãnh đạo Trung
Quốc có cùng quan điểm với Chu Ân Lai. Họ khác nhau trên nhiều phương diện.
Nhưng có thể nói rằng người kiên trì nhất, người có đầu óc đại Hán và người muốn
chiếm cả vùng Đông Nam Á, chính là Mao. Tất cả mọi chính sách [của Trung Quốc]
đều nằm trong tay Mao.
Cũng
có thể nói như vậy về các nhà lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc. Chúng ta không
biết trong tương lai mọi chuyện sẽ ra sao, nhưng dẫu sao [sự thực là] họ đã tấn
công ta. Trước đây Đặng Tiểu Bình đã từng làm hai việc mà giờ đây lại lật ngược
hẳn lại. Đó là, khi ta thắng lợi ở miền Nam, nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc
không hài lòng. Tuy nhiên Đặng Tiểu Bình cũng vẫn cứ chúc mừng ta. Kết quả là
ông ta lập tức bị những người khác coi là phần tử xét lại.
Khi
tôi đi Trung Quốc lần cuối cùng (44), tôi là trưởng đoàn, và tôi đã gặp đoàn đại
biểu Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình dẫn đầu. Khi nói tới vấn đề lãnh thổ, gồm cả
thảo luận về một số hòn đảo, tôi có nói: “Hai nước chúng ta nằm cạnh nhau. Có một
số khu vực trên lãnh thổ chúng tôi chưa được phân định rõ ràng. Cả hai phía
chúng ta cần phải thành lập một ủy ban để xem xét vấn đề này. Thưa các đồng
chí, xin hãy nhất trí với tôi [về chuyện này]. Ông ấy [Đặng] đã đồng ý, nhưng
vì vậy mà sau đó ông ta lại bị các nhóm lãnh đạo khác chụp mũ xét lại tức thời.
Nhưng
bây giờ thì ông ấy [Đặng] điên thật rồi. Bởi vì ông ta muốn tỏ ra mình không phải
là xét lại nên ông ta đã đánh Việt Nam mạnh hơn. Ông ta đã bật đèn xanh cho họ
tấn công Việt Nam.
Sau
khi đánh bại đế quốc Mỹ, chúng ta vẫn giữ một đạo quân hơn một triệu người. Một
số lãnh đạo Liên Xô đã hỏi ta: “Các đồng chí còn định đánh nhau với ai nữa mà lại
vẫn duy trì một đội quân [thường trực] lớn như vậy?” Tôi đáp: “Sau này các đồng
chí sẽ hiểu.” Lý do duy nhất khiến chúng ta giữ một đạo quân thường trực như vậy
chính là vì Trung Quốc [mối đe dọa của họ đối với Việt Nam]. Nếu như không có
[sự đe dọa đó] thì đội quân [thường trực lớn] này sẽ không còn cần thiết nữa.
Đã bị tấn công gần đây trên cả hai mặt trận, [chúng ta có thể thấy rõ rằng] sẽ
rất nguy hiểm nếu chúng ta không duy trì một đội quân lớn.
(B)
[Ý nghĩa của chữ B này trong bản gốc không được rõ] – Từ cuối Đại chiến thế giới
thứ hai, tất cả đều cho rằng đế quốc Mỹ chính là tên sen đầm quốc tế. Chúng có
thể xâm chiếm và đe dọa các nước khác trên thế giới. Mọi người, kể cả các cường
quốc, đều sợ Mỹ. Duy chỉ có Việt Nam là không sợ Mỹ mà thôi.
Tôi
hiểu được điều này nhờ cuộc đời hoạt động của mình đã dạy tôi như vậy. Người đầu
tiên sợ [Mỹ] chính là Mao Trạch Đông. Ông ta nói với tôi, cả Việt Nam và Lào, rằng:
“Các anh phải lập tức chuyển giao ngay hai tỉnh giải phóng của Lào cho chính
quyền Viên Chăn. Nếu không thì Mỹ sẽ lấy cớ để tấn công. Thế thì hết sức nguy
hiểm.” Về phía Việt Nam, chúng ta nói: “Chúng tôi sẽ đánh Mỹ để giải phóng miền
Nam.” Ông ta [Mao] nói: “Các anh không được làm như vậy. Miền Nam Việt Nam cần
phải trường kỳ mai phục, có thể một đời người, năm đến mười đời, thậm chí hai
mươi đời nữa. Các anh không thể đánh Mỹ. Đánh nhau với Mỹ là một việc nguy hiểm.”
Mao Trạch Đông đã sợ Mỹ đến như vậy…
Nhưng
Việt Nam không sợ. Việt Nam đã tiến lên và chiến đấu. Nếu Việt Nam không đánh Mỹ
thì miền Nam sẽ không được giải phóng. Một nước chưa được giải phóng thì vẫn cứ
là một nước phụ thuộc. Không có nước nào được độc lập nếu chỉ có một nửa nước
được tự do. Đó là tình hình cho đến năm 1975, khi đất nước ta cuối cùng đã
giành được hoàn toàn độc lập. Có độc lập thì sẽ có tự do. Tự do phải là thứ tự
do cho cả nước Việt Nam…
Ăng
ghen đã từng nói về chiến tranh nhân dân. Sau đó Liên Xô, rồi Trung Quốc và cả
ta nữa cũng nói [về vấn đề này]. Tuy nhiên, ba nước khác nhau rất nhiều về nội
dung [của chiến tranh nhân dân]. Sẽ là không đúng nếu chỉ vì anh có hàng triệu
người mà anh muốn làm gì thì làm. Trung Quốc cũng nói về chiến tranh nhân dân
nhưng [họ chủ trương] “địch tiến ta lùi”. Nói cách khác, phòng ngự là chủ yếu,
và chiến tranh chia làm ba giai đoạn, lấy nông thôn bao vây thành thị, trong
khi [chủ lực] vẫn lẩn trốn trong vùng rừng núi… Trung Quốc đã thiên về phòng ngự
và rất yếu [trong Đại chiến Thế giới thứ hai]. Thậm chí, với 400 triệu dân chống
lại quân đội Nhật chỉ có khoảng 300 đến 400 ngàn người, Trung Quốc vẫn không thể
đánh bại Nhật. (45)
Tôi
phải nhắc lại như vậy vì trước kia Trung Quốc đã gửi cố vấn sang ta nên một số
anh em [ta] không hiểu. Họ nghĩ rằng Trung Quốc rất là tài giỏi. Nhưng họ cũng
không tài giỏi lắm đâu, và vì thế ta cũng không làm theo [sự cố vấn của Trung
Quốc]. (46)
Năm
1952 tôi rời miền Bắc sang Trung Quốc chữa bệnh. Đấy là lần đầu tiên tôi ra nước
ngoài. (47) Tôi đã đánh dấu hỏi về họ [Trung Quốc] và thấy rất nhiều chuyện lạ.
Những vùng [đã từng] bị quân Nhật chiếm đóng có dân cư là 50 triệu người, nhưng
không có thậm chí một người du kích…
Khi
tôi từ Trung Quốc về, tôi gặp bác [Hồ]. Bác hỏi:
–
Đây là lần đầu tiên chú đi ra nước ngoài có phải không?
–
Vâng, tôi ra nước ngoài lần đầu tiên.
–
Chú thấy những gì?
–
Tôi thấy hai chuyện: Việt Nam rất dũng cảm và họ [Trung Quốc] hoàn toàn không.
Tôi
hiểu điều đó từ bấy giờ. Chúng ta [người Việt Nam] khác hẳn họ. Lòng dũng cảm
là đặc tính cố hữu trong từng con người Việt Nam, và do vậy chúng ta chưa từng
có chiến lược thiên về phòng ngự. Mỗi người dân là một chiến sĩ.
Gần
đây, họ [Trung Quốc] đem vài trăm ngàn quân xâm lấn nước ta. Trên phần lớn mặt
trận, ta mới sử dụng dân quân du kích và bộ đội địa phương để đánh trả. Chúng
ta không thiên về phòng ngự, và do vậy họ đã thất bại. Họ không thể tiêu diệt gọn
một trung đội nào của Việt Nam, còn ta diệt gọn vài trung đoàn và vài chục tiểu
đoàn của họ. Đạt được điều đó vì ta có chiến lược nghiêng về tấn công.
Đế
quốc Mỹ đã đánh nhau với ta trong một cuộc chiến dài lâu. Họ hết sức mạnh mà vẫn
thua. Nhưng ở đây có một yếu tố đặc biệt, đó là sự mâu thuẫn gay gắt giữa Trung
Quốc và Liên Xô. [Vì thế], họ đã đánh ta ác liệt như vậy.
Việt
Nam chống Mỹ và đánh chúng quyết liệt, nhưng chúng ta cũng biết rằng Mỹ là một
nước rất lớn, có khả năng huy động một đội quân mười triệu người và dùng tất cả
những vũ khí tối tân nhất để đánh ta. Vì vậy chúng ta phải chiến đấu một thời
gian dài để kéo chúng xuống thang. Chúng ta là người có thể làm được như vậy;
Trung Quốc thì không. Khi quân Mỹ tấn công Quảng Trị, Bộ Chính trị đã ra lệnh
đưa bộ đội vào ứng chiến ngay lập tức. Chúng ta không sợ. Sau đó tôi có sang
Trung Quốc để gặp Chu Ân Lai. Ông ta nói với tôi: “Nó [cuộc chiến đấu ở Quảng
Trị] có lẽ là độc nhất vô nhị, chưa từng có. Đời người chỉ có một [cơ hội],
không hai. Không ai dám làm việc mà các đồng chí đã làm”.
…
Chu Ân Lai đã từng là Tổng Tham mưu trưởng. Ông dám nói và ông cũng thẳng thắn
hơn. Ông nói với tôi: “Nếu tôi được biết trước cách đánh mà các đồng chí đã sử
dụng thì có lẽ chúng tôi không cần đến cuộc Trường chinh.” Vạn lý Trường chinh
để làm gì? Vào lúc bắt đầu cuộc Trường chinh họ có một đội quân 300 nghìn người;
và khi kết thúc họ chỉ còn lại có 30 nghìn. 270 nghìn đã bị tiêu hao. Đó quả thật
là ngu ngốc nếu làm theo cách ấy… [Tôi] nói như vậy để các đồng chí hiểu, chúng
ta đã tiến xa hơn bao nhiêu. Sắp tới, nếu ta lại phải chiến đấu chống Trung Quốc,
chúng ta nhất định thắng lợi… Dẫu sao, một sự thực là nếu như một nước khác
[không phải Việt Nam] phải đánh nhau với Trung Quốc, thì chưa chắc họ có thể thắng
như vậy [giống Việt Nam] được.
…
Nếu Trung Quốc và Liên Xô nhất trí với nhau, thì cũng chưa chắc là Mỹ sẽ dám
đánh ta. Nếu như hai nước đoàn kết và cùng giúp ta, thì cũng chưa chắc rằng Mỹ
sẽ dám đánh ta theo cách như chúng đã làm. Họ có thể chùn bước ngay từ đầu. Họ
có thể bỏ cuộc như trong thời Tổng thống Kennedy. Việt Nam, Trung Quốc và Liên
Xô tất cả cùng giúp Lào và Mỹ tức thời ký hiệp ước với Lào. Họ không dám gửi
quân sang Lào, họ chấp nhận cho Đảng [Nhân dân Cách mạng] Lào tham gia vào
chính phủ ngay lập tức. Họ không dám tấn công Lào nữa.
Sau
đó, khi hai nước [Liên Xô và Trung Quốc] có mâu thuẫn với nhau, phía Mỹ lại được
[Trung Quốc] thông báo rằng họ có thể tiếp tục đánh Việt Nam mà không sợ gì cả.
Đừng sợ [Trung Quốc trả đũa]. Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông nói với Mỹ: “Nếu người
không đụng đến ta thì ta sẽ không đụng đến người. Các anh có thể đưa bao nhiêu
quân vào miền Nam Việt Nam cũng được. Điều đó tùy theo các anh.” (48)
…
Chúng ta [hiện nay] tiếp giáp với một quốc gia lớn, một nước có những ý đồ bành
trướng, mà nếu được thực hiện thì sẽ bắt đầu với cuộc xâm lăng Việt Nam. Như vậy,
ta phải gánh vác một vai trò lịch sử nữa, khác trước. Dẫu sao, chúng ta không
bao giờ thoái thác nhiệm vụ lịch sử của mình. Trước đây, Việt Nam đã hoàn thành
nhiệm vụ lịch sử của mình và lần này Việt Nam quyết tâm không cho chúng bành
trướng. Việt Nam bảo vệ nền độc lập của chính mình và đồng thời cũng là bảo vệ
nền độc lập của các nước Đông Nam Á. Việt Nam quyết không để cho Trung Quốc thực
hiện mưu đồ bành trướng của họ. Cuộc chiến gần đây [với Trung Quốc] mới chỉ là
một hiệp. Hiện nay họ vẫn đang ráo riết chuẩn bị trên nhiều chiến trường. Dù
sao đi nữa, mặc họ chuẩn bị đến mức nào, Việt Nam cũng vẫn sẽ thắng…
Tiến
hành chiến tranh không phải là một cuộc dạo chơi trong rừng. Dùng một triệu
quân để tiến hành chiến tranh chống nước khác kéo theo vô vàn khó khăn. Chỉ mới
đây thôi, họ đem 500 đến 600 ngàn quân đánh chúng ta, mà họ không có đủ phương
tiện vận tải để chuyên chở lương thực cho quân đội họ. Trung Quốc hiện nay có một
đội quân ba triệu rưỡi người, nhưng họ phải để lại một nửa trên biên giới
[Trung-Xô] nhằm phòng ngừa Liên Xô. Vì lý do đó, nếu họ có mang một hoặc hai
triệu quân sang đánh ta, chúng ta cũng không hề sợ hãi gì cả. Chúng ta chỉ có
600 ngàn quân ứng chiến và nếu sắp tới chúng ta phải đánh với hai triệu quân,
thì cũng không có vấn đề gì cả. Chúng ta không sợ.
Chúng
ta không sợ vì chúng ta đã biết cách chiến đấu. Nếu họ mang vào một triệu quân
thì họ cũng chỉ đặt được chân ở phía Bắc. Càng đi xuống vùng trung du, vùng đồng
bằng châu thổ, và vào Hà Nội hoặc thậm chí vào sâu hơn nữa thì sẽ càng khó
khăn. Các đồng chí, các đồng chí đã biết, bè lũ Hitler đã tấn công ác liệt như
thế nào, mà khi tiến đến Leningrad chúng cũng không thể nào vào nổi. (Phải đối
mặt) với những (làng mạc,) thành phố, nhân dân và công tác phòng ngự, không ai
có thể thực hiện một cuộc tấn công hiệu quả chống lại từng người cư dân. Thậm
chí có đánh nhau hai, ba hoặc bốn năm chúng cũng không thể nào tiến vào được. Mỗi
làng xóm của chúng ta [trên biên giới phía Bắc] là như vậy. Chủ trương của ta
là: Mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một chiến trường. Chúng ta sẽ chiến
đấu và chúng sẽ không thể nào xâm nhập được.
Tuy
nhiên, sẽ không đầy đủ nếu chỉ nói đến đánh giặc ngoài tiền tuyến. Ngưới ta
cũng cần phải có một đội quân hậu tập trực tiếp, hùng mạnh. Sau khi cuộc chiến
vừa qua chấm dứt, chúng ta đã nhận định rằng, sắp tới, ta cần đưa thêm vài triệu
người lên (các tỉnh) mặt trận phía Bắc. Nếu giặc đến từ phương Bắc, hậu phương
trực tiếp của cả nước sẽ là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh… Hậu phương trực tiếp để
bảo vệ Thủ đô phải là Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh. Chúng ta có đủ người. Ta sẽ đánh
bằng nhiều cách… Ta có thể dùng hai hoặc ba quân đoàn giáng cho địch một đòn
quyết liệt khiến chúng choáng váng, trong khi tiếp tục bảo vệ lãnh thổ của ta.
Để làm được như vậy, mỗi người lính phải là một người lính thực sự, mỗi tiểu đội
phải là một tiểu đội thực sự.
Vừa
trải qua một trận chiến, chúng ta không được chủ quan. Chủ quan khinh địch là
không đúng, nhưng thiếu tự tin thì cũng sai. Ta không chủ quan khinh địch nhưng
ta cũng đồng thời tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của chúng ta. Ta cần phải
có cả hai yếu tố đó.
Trung
Quốc hiện đang có âm mưu tấn công ta nhằm bành trướng xuống phía Nam. Nhưng
trong thời đại hiện nay người ta không thể làm gì mà che đậy giấu giếm được.
Trung Quốc vừa mới gây hấn với Việt Nam có vài ngày, cả thế giới đã đồng thanh
hô lớn: “Không được đụng đến Việt Nam!” Thời nay không còn giống như thời xưa nữa.
Ngày xưa chỉ có ta (đối mặt) với họ [Trung Quốc]. Ngày nay cả thế giới sát cánh
chặt chẽ bên nhau. Nhân loại hoàn toàn chưa bước vào giai đoạn Xã hội chủ
nghĩa; thay vì thế bây giờ lại là thời mà mọi người đều mong muốn độc lập và tự
do. [Thậm chí] trên những hòn đảo nhỏ, nhân dân ở đó cũng mong muốn độc lập tự
do. Cả loài người hiện nay là như vậy. Điều đó rất khác với thời xưa. Khi ấy mọi
người còn chưa biết rõ về những khái niệm này. Lời bác Hồ: “Không có gì quý hơn
độc lập tự do!” là tư tưởng của thời đại ngày nay. Đụng đến Việt Nam là đụng đến
nhân loại và xâm phạm đến độc lập tự do… Việt Nam là quốc gia tượng trưng cho độc
lập và tự do.
Khi
bàn đánh Mỹ, anh em ta trong Bộ Chính trị đã cùng thảo luận chuyện này để cân
nhắc xem ta có dám đánh Mỹ hay không. Tất cả đều đồng ý đánh. Bộ Chính trị đã
biểu thị quyết tâm của mình: Để đánh Mỹ chúng ta nhất định phải không sợ Mỹ. Tất
cả đã đồng lòng. Trong khi tất cả đều nhất trí đánh Mỹ, để không sợ Mỹ chúng ta
cũng phải không sợ Liên Xô. Mọi người đều đồng ý. Chúng ta cũng cần không sợ
Trung Quốc. Mọi người đều tán thành. Nếu chúng ta không sợ ba cái (nước lớn)
đó, ta có thể đánh Mỹ. Đấy là chúng tôi đã làm việc như thế nào ở Bộ Chính trị
trong thời gian đó.
Mặc
dầu Bộ Chính trị đã họp và thảo luận như vậy và mọi người đều nhất trí đồng
lòng, sau đó lại có người đã nói lại với một đồng chí những điều tôi nói. Người
đồng chí đó lại chất vấn Bộ Chính trị, hỏi rằng tại sao anh Ba (49) lại nói rằng
nếu chúng ta muốn đánh Mỹ thì chúng ta phải không sợ cả Trung Quốc? Tại sao anh
ấy lại đặt vấn đề như vậy? (50)
Lúc
đó anh Nguyễn Chí Thanh, một người thường được cho rằng là có cảm tình với
Trung Quốc, đứng dậy nói: “Thưa các đồng chí trong Bộ Chính trị và bác Hồ kính
mến, lời phát biểu của anh Ba là đúng. Cần phải nói như vậy [về việc cần phải
không sợ Trung Quốc], bởi vì họ [Trung Quốc] đã gây khó khăn cho chúng ta trong
nhiều vấn đề. Họ ngăn cản chúng ta ở đây, rồi trói tay ta ở kia. Họ không cho
ta đánh…” (51)
Trong
khi ta đang chiến đấu trong Nam, Đặng Tiểu Bình đã quy định rằng tôi chỉ nên
đánh từ mức trung đội trở xuống, và không được đánh ở mức độ lớn hơn. Ông ta [Đặng]
nói: “Ở miền Nam, do các anh đã phạm sai lầm là đã phát động cuộc chiến, các
anh chỉ được đánh từ cấp trung đội trở xuống, chứ không được đánh lớn hơn”. Đó
là họ đã ép ta như thế nào.
Chúng
ta không sợ ai cả. Ta không sợ bởi vì ta có chính nghĩa. Chúng ta không sợ thậm
chí các nước đàn anh. Ta cũng không sợ bạn bè ta. (52) Tất nhiên, chúng ta
không sợ quân thù. Ta đã đánh chúng. Chúng ta là những con người; chúng ta
không phải sợ bất kỳ ai. Chúng ta độc lập. Cả thế giới biết rằng ta độc lập.
Chúng
ta phải có một quân đội mạnh, bởi vì nước ta đang bị đe dọa và bị bắt nạt…
Không thể nào khác được. Nếu không thì sẽ rất nguy hiểm vì ta là một nước
nghèo.
Ta
có một đội quân mạnh, nhưng việc đó không làm chúng ta yếu đi chút nào. Đối với
ta Trung Quốc có một số chủ trương: Xâm lược và chiếm đóng nước ta; làm ta suy
yếu về kinh tế và làm cho đời sống của nhân dân ta khó khăn hơn. Vì những lý do
đó, để chống Trung Quốc chúng ta phải, trước hết, không chỉ chiến đấu, mà còn
phải tự làm cho mình mạnh lên. Để đạt được điều đó, theo quan điểm của tôi,
quân đội ta không thể là một đội quân chỉ dựa vào nguồn cung cấp của nhà nước,
mà còn phải là một đội quân sản xuất giỏi. Khi giặc đến họ sẽ cầm chắc tay
súng. Khi không có giặc họ sẽ sản xuất mạnh mẽ. Họ sẽ là biểu tượng cao nhất và
tốt nhất trong sản xuất, sẽ làm ra nhiều (của cải vật chất) hơn bất cứ ai. Tất
nhiên, đấy không phải là chuyện mới lạ. (53)
Hiện
nay, quân đội ta đang gánh vác một sứ mệnh lịch sử: bảo vệ độc lập và tự do của
đất nước, đồng thời bảo vệ hòa bình và độc lập trên toàn thế giới. Nếu chính
sách bành trướng của bè lũ phản cách mạng Trung Quốc không thể thực hiện được
thì đó chính là lợi ích của cả thế giới. Việt Nam có thể làm được. Việt Nam đã
có năm chục triệu người. Việt Nam có Lào và Căm bốt là bạn và có địa thế hiểm
trở. Việt Nam có cả phe (Xã hội chủ nghĩa) ta và cả nhân loại đứng về phiá
mình. Rõ ràng là chúng ta có thể làm được việc đó.
…
Các đồng chí có thấy ai ở trong Đảng ta, trong nhân dân ta mà hoài nghi rằng ta
sẽ thua Trung Quốc không? Không có ai, tất nhiên rồi. Nhưng chúng ta phải duy
trì những quan hệ thân hữu của mình. Chúng ta không muốn sự hằn thù dân tộc.
Tôi nhắc lại: Tôi nói như vậy vì không bao giờ tôi mang lòng hận thù đối với
Trung Quốc. Tôi không có thứ tình cảm như vậy, dù chính họ là người đã đánh ta.
Hôm nay tôi muốn các đồng chí biết rằng trên đời này người đã từng bảo vệ Trung
Quốc lại chính là tôi! Đúng như vậy đó. Tại sao thế? Bởi vì trong hội nghị ở
Bucharest tháng 6 năm 1960, sáu mươi đảng đã phản đối Trung Quốc nhưng chỉ có
mình tôi là người đã bênh vực Trung Quốc. (54) Nhân dân Việt Nam ta là như vậy.
Tôi sẽ tiếp tục nhắc lại rằng: Dù họ có đối xử tồi tệ đến đâu chăng nữa, chúng
ta biết rằng nhân dân Trung Quốc là bạn ta. Về phía chúng ta, ta không mang những
mặc cảm xấu xa đối với Trung Quốc. Còn về ý đồ của một số lãnh đạo [Trung Quốc]
thì là chuyện khác. Chúng ta nhắc tới họ chỉ như một bè lũ mà thôi. Chúng ta
không ám chỉ cả nước họ. Ta không nói nhân dân Trung Quốc xấu với ta. Ta nói rằng
chỉ có bè lũ phản cách mạng Bắc Kinh là như thế. Tôi nhắc lại lần nữa ta phải
tuân thủ nghiêm nhặt như vậy.
Tóm
lại, hãy giữ cho tình hình trong vòng kiểm soát chặt chẽ, sẵn sàng chiến đấu và
không bao giờ lơi là cảnh giác. Đối với Trung Quốc ta cũng làm như vậy. Tôi tin
chắc rằng trong vòng năm mươi năm nữa, hoặc thậm chí có thể một trăm năm, chủ
nghĩa xã hội sẽ thành công; và khi đó thì ta sẽ không còn vấn đề gì nữa. Nhưng
nó đòi hỏi thời gian. Bởi vậy chúng ta phải chuẩn bị và sẵn sàng trên mọi phương
diện.
Bây
giờ không ai còn hoài nghi gì nữa. Nhưng 5 năm trước tôi biết chắc rằng không
có đồng chí nào lại nghĩ là Trung Quốc có thể đánh ta. Vậy mà có đấy. Đó là trường
hợp vì các đồng chí ấy không có hiểu biết đầy đủ về vấn đề này. (55) Nhưng đó không
phải là trường hợp xảy ra với chúng ta [Lê Duẩn và ban lãnh đạo]. (56) Chúng ta
biết rằng họ sẽ đánh ta trong khoảng mười năm hoặc hơn. Do đó chúng ta không bị
bất ngờ [vì cuộc tấn công tháng giêng 1979 của Trung Quốc].
——————–
Ghi chú của Christopher E. Goscha: 24-56
24.
Tài liệu này được dịch từ bản sao một số trích đoạn trong bản gốc. Nó được chép
lại từ bản gốc lưu trữ trong Thư viện Quân đội, Hà Nội. Christopher E. Goscha,
người dịch tài liệu này (ra tiếng Anh) đã được phép hoàn toàn đầy đủ để làm việc
đó. Văn bản là bài nói chuyện được cho là của “đồng chí B”. Nó có thể do chính
đồng chí B viết, nhưng có nhiều khả năng hơn nó là bản đánh máy của một người
nào đó dự buổi nói chuyện của “đồng chí B” (một cán bộ cao cấp hoặc một thư ký
đánh máy). Trong văn bản, đồng chí B có đề cập rằng, trong những cuộc họp của Bộ
Chính trị ông ta được gọi là anh Ba. Đó là bí danh mà chúng ta được biết là của
Tổng Bí thư Lê Duẩn, đã dùng trong Đảng Lao động Việt Nam (từ 1976 là “Đảng Cộng
sản Việt Nam”). Mặc dầu tài liệu không đề ngày tháng, nhưng rõ ràng văn bản được
viết trong năm 1979, sau cuộc tấn công Việt Nam của Trung Quốc. Nó được củng cố
thêm bằng một tài liệu khác mang tính cáo buộc mạnh mẽ, xuất bản năm 1979 theo
chỉ thị của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó đã liệt kê tuần tự sự phản bội của
Trung Quốc và, không hoàn toàn bất ngờ, cùng đề cập đến nhiều sự kiện mà Lê Duẩn
đã kể lại trong tài liệu này. Xem: Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam, Sự
thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua (Hà Nội: Nhà Xuất Bản
Sự Thật, 1979). Trong phần Ghi chú này có cho thêm số trang trong bản tiếng
Pháp của cùng văn kiện: Ministère des Affaires Étrangères, La vérité sur
les relations vietnamo- chinoises durant les trente dernière années. Dịch
giả xin cám ơn Thomas Engelbert, Stein Tønnesson, Nguyen Hong Thach, và hơn cả
là một độc giả Việt Nam ẩn danh, đã sửa chữa và đóng góp cho nhiều ý kiến quý
báu. Dịch giả xin chịu trách nhiệm về những sai sót trong bản dịch này.
25.
Những dấu tỉnh lược (…) như vậy là nguyên văn trong bản gốc; những dấu tỉnh lược
và nhận xét của dịch giả được đặt trong dấu ngoặc vuông: […].
26.
Hiệp định Giơ ne vơ năm 1954 đã cho Pathet Lao, đồng minh gần gũi của Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, một khu vực tập kết tạm thời ở hai tỉnh (Bắc Lào) Phong xa lỳ
và Sầm Nưa. Không có một nhượng địa tương tự cho Khơ me It xa la, đồng minh của
Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
27.
Cuốn sách Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm quacho biết
cuộc hội đàm cấp cao về Lào diễn ra vào tháng 8 – 1961 (La vérité sur les
relations vietnamo- chinoises durant les trente dernière années, trang
34).
28.
Trương Văn Thiên là một trong những thành viên của Đoàn đại biểu Trung Quốc,
người đã có mặt khi Lê Duẩn phát biểu những nhận xét này. Ông còn là Thứ trưởng
Ngoại giao nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, là Ủy viên lâu năm trong Bộ Chính
trị Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong những năm 1950 ông ta là Ủy viên dự khuyết
Bộ Chính trị giữ trách nhiệm về liên lạc đối ngoại với các nước Xã hội chủ
nghĩa.
29.
Sách Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua đã
miêu tả cuộc gặp gỡ như sau: “Trong một cuộc trao đổi ý kiến với những người
lãnh đạo Việt Nam, Ủy viên trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thứ trưởng
Bộ Ngoại giao Trương Văn Thiên cho rằng ở miền Nam Việt Nam có thể tiến hành
đánh du kích. Nhưng sau đó Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội, theo chỉ thị của Bắc
Kinh, đã thông báo với phía Việt Nam rằng đó không phải là ý kiến của Trung
ương Đảng Cộng sản Trung Quốc mà chỉ là ý kiến cá nhân. The Truth…, trang
40. (La vérité…, trang 31.)
30.
Xem Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua, trang 60. (La
vérité…, trang 47.)
31.
Lê Duẩn muốn nói đến nhiệm vụ giải thích việc tập kết cán bộ miền Nam ra Bắc.
Lê Duẩn cũng cố tình lảng tránh không đề cập đến việc Trung Quốc đã giúp Việt
Nam chiến thắng ở Điện Biên Phủ năm 1954.
32.
Xem Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua trang
60, đoạn phía Việt Nam đã nói với Trung Quốc tháng 11-1972: “Việt Nam là của
chúng tôi; các đồng chí không được bàn với Mỹ về vấn đề Việt Nam. Các đồng chí
đã nhận sai lầm năm 1954 rồi, bây giờ không nên sai lầm một lần nữa”. (La
vérité…, trang 47.)
33.
Một trong những thư ký của Lê Duẩn, Trần Quỳnh, gần đây đã cho lưu hành ở Việt
Nam cuốn Hồi ức của ông ta, trong đó có nhiều chi tiết lý thú về đường lối của
Lê Duẩn đối với sự phân liệt Trung Xô và sự chia rẽ trong (hàng ngũ cán bộ cao
cấp của) Đảng Lao động Việt Nam về vấn đề này trong những năm 1960. Trần Quỳnh, Những
kỷ niệm về Lê Duẩn, không in ngày tháng, tự xuất bản, dịch giả hiện có một
bản.
34.
Khang Sinh (1903-1975), một trong những chuyên viên hàng đầu của Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa về an ninh quốc gia. Ông ta được Bộ Nội vụ (NKVD) Liên Xô đào tạo
trong những năm 1930, và trở thành cố vấn thân cận nhất cho Mao trong việc cắt
nghĩa những chính sách của Liên Xô. Khang Sinh cũng từng là Bí thư Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1962, và Ủy viên Bộ Chính trị từ
1969; giữa 1973 và 1975 ông ta là Ủy viên Ban thường vụ Bộ Chính trị.
35.
Xem Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua trang
43, trong đó Việt Nam tuyên bố là Đặng Tiểu Bình đã hứa sẽ coi Việt Nam là ưu
tiên số một trong vấn đề viện trợ cho nước ngoài để đổi lấy việc Việt Nam sẽ
khước từ mọi viện trợ của Liên Xô. (La vérité…, trang 33.)
36.
Xem “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” trang 43. (La
vérité…, trang 33) và cả Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn.
37.
Tháng 11-1966, Liên Xô lên án Trung Quốc đã từ bỏ đường lối Cộng sản thế giới
đã được thông qua tại các Hội nghị Mascơva 1957 và 1960. Xem thêm Trần Quỳnh, Những
kỷ niệm về Lê Duẩn.
38.
Bộ Ngoại giao, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua cho
biết Mao đã phát biểu như vậy với đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán
năm 1963. Trong sách đã trích dẫn lời Mao nói: “Tôi sẽ làm Chủ tịch 500 triệu bần
nông đưa quân xuống Đông Nam châu Á.” (La vérité…, trang 9).
39.
Đoạn này có thể dịch (sang tiếng Anh) là “và tôi sẽ đánh bại cả các anh nữa” hoặc
“tôi có thể đánh bại cả các anh”.
40.
Đối với dịch giả (Christopher E. Goscha), chỗ này không được rõ là Lê Duẩn muốn
nói tới ai khi dùng chữ “quân sự”. (Ngược lại, đối với người dịch ra tiếng Việt
thì rõ ràng trong ngôn cảnh này ông nói là tôi mời một số anh em bên quân đội…,
một cách nói thân mật, thường dùng thời đó nhưng tất nhiên hàm chỉ một số tướng
tá cao cấp).
41.
Đây có lẽ dựa vào lời Đại sứ Trung Quốc tại Máscơva chuyển cho phía Liên Xô
nhân dịp kỷ niệm 15 năm ngày ký kết Hiệp ước Hữu nghị, Đồng minh và Tương trợ
Trung-Xô. Đại sứ Trung Quốc Phan Tự lực đã nói với Liên Xô: “Nếu bọn đế quốc
dám tấn công Liên Xô, nhân dân Trung Quốc không hề ngần ngại, sẽ thực hiện
nghĩa vụ của mình theo Hiệp ước và cùng với nhân dân Liên Xô vĩ đại… sẽ kề vai
sát cánh chiến đấu cho đến thắng lợi cuối cùng.” Trích từ Donald S.
Zagoria, Mạc tư khoa, Bắc Kinh, Hà nội (New York: Pegasus, 1967),
trang 139-140.
42.
Bành Chân là Ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Trung
Quốc từ 1951 đến 1969.
43.
Lý Cường là Phó Chủ tịch Ủy ban liên lạc kinh tế đối ngoại của Quốc vụ viện từ
1965 đến 1967. Giữa 1968 và 1973, ông là Thứ trưởng Bộ Ngoại thương, và từ 1973
là Bộ trưởng Ngoại thương Trung Quốc.
44.
Đây muốn nói tới chuyến đi của Lê Duẩn vào tháng 11-1977.
45.
Lê Duẩn quên rằng cho đến tháng 3-1945, thậm chí chỉ với số người ít hơn, Pháp
đã có thể cai trị Việt Nam mà không gặp quá nhiều khó khăn.
46.
Về cố vấn Trung Quốc, xin xem Qiang Zhai, Trung Quốc và chiến tranh Việt
Nam, 1950-1975 (Chapel Hill: Nhà xuất bản Viện đại học North Carolina,
2000), và Christopher E. Goscha, “Bối cảnh châu Á của cuộc chiến Pháp-Việt” luận
án trình bày tại Trường Cao đẳng thực hành, thuộc Viện Đại học Sorbonne, Paris,
2000, phần Trung Quốc.
47.
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp Lê Duẩn thường xuyên ra miền Bắc, nhưng ông thường
được cho là vẫn ở lại miền Nam thời kỳ này trong cương vị Bí thư Xứ ủy Nam kỳ,
mà sau này đổi thành Trung ương cục miền Nam vào đầu năm 1950. Dịch giả cũng
hoài nghi việc Lê Duẩn đi Trung Quốc năm 1952. Hồ Chí Minh thì có, nhưng Lê Duẩn
thì không.
48.
Về chi tiết này, xin xem chương 6 của cuốn sách này.
49.
Điều này khẳng định Đồng chí B cũng chính là “Anh Ba”. Ta biết rằng Anh Ba là
bí danh của Lê Duẩn, từ đó suy ra Đồng chí B cũng là Lê Duẩn. Từ những sự kiện
được nói đến trong văn bản thì điều này là chắc chắn, và cuốn Trần Quỳnh, Những
kỷ niệm về Lê Duẩn, cũng khẳng định điều này.
50.
Ở đây có thể ám chỉ Hoàng Văn Hoan. (Để có cái nhìn toàn cảnh hơn) về một quan
điểm cần tranh luận, xin tham khảo thêm cuốn Giọt nước trong biển cả (Hồi ức
về một cuộc cách mạng) (Bắc Kinh: Nhà xuất bản Tin Việt Nam, 1986).
51.
Xem thêm Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn.
52.
Đây có lẽ muốn nói bóng gió tới Liên Xô (và khối Đông Âu).
53.
Hình thức chiến tranh này đã từng có ở Trung Quốc và những nơi khác trong hoàn
cảnh chiến tranh du kích.
54.
Điều này đã diễn ra vào tháng 6-1960. Để biết thêm về lập trường của Lê Duẩn
trong vấn đề này xin xem Trần Quỳnh, Những kỷ niệm về Lê Duẩn. Sau đại
hội Đảng Cộng sản Ru ma ni tháng 6-1960, Liên Xô đã tổ chức một cuộc họp tại chỗ
các trưởng đoàn đại biểu những nước có mặt. Trong buổi họp đó Khơ rút xốp đã
phê phán Trung Quốc nặng nề, đặc biệt là Mao, người mà ông ta cho là “giáo điều”
vì những quan điểm của Mao về vấn đề chung sống hòa bình. Xem Adam B.
Ulam, The Communists: The Story of Power and Lost Illusions 1948-1991(New
York: Macmillan, 1992), trang 211.
55.
Dường như đây là một cái tát vào mặt Hoàng Văn Hoan mà không phải ai khác.
56.
Đây có lẽ muốn nói tới những nhà lãnh đạo khác đang có mặt nghe Lê Duẩn nói
chuyện, và có thể là một chỉ hiệu rằng người đồng chí thân Trung Quốc đã nói ở
trên không có mặt trong buổi nói chuyện này. Xem thêm Trần Quỳnh, Những kỷ
niệm về Lê Duẩn.
Nguồn: Thư
viện Quân đội, Hà Nội. Tài liệu do Christopher E. Goscha phát hiện và dịch sang
tiếng Anh, Nhóm nghiên cứu Việt Nam đương đại, Trường Khoa học Chính trị,
Paris.
Bản
dịch tiếng Việt © 2010 Bùi Xuân Bách & talawas
Nhận xét
Đăng nhận xét