TÌNH SỬ HUYỀN TRÂN-[Toàn truyện xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxx
TÌNH SỬ HUYỀN TRÂN
[Truyện thơ-Thập thủ]
1.
1.
CÀNH VÀNG LÁ NGỌC
Huyền Trân vốn cành vàng
lá ngọc
Con vua Trần tên gốc Nhân
Tông
Mẹ là gái trưởng Đại vương[1]
Con dòng của giống thuộc vương giả nòi.
Mẹ là gái trưởng Đại vương[1]
Con dòng của giống thuộc vương giả nòi.
Nàng sinh năm Một hai tám
tám[1288]
Giữa điện vàng ngọc khảm Trần gia
Giỏi học vấn, trội thi ca
Giỏi học vấn, trội thi ca
Là thân công chúa lại đa
cảm tình.
Ngời dung mạo hoa xinh nét
mặt
Giọng oanh vàng khẽ cất líu lo
Giọng oanh vàng khẽ cất líu lo
Hát ca múa vẽ xôm trò
Sắc tài nhường ấy lại nho
nhã người.
Trong cung cấm nào lơi
việc học
Chẳng bao giờ “trong bộc,
trên dâu”
Lập thân hiếu nghĩa làm
đầu
Thờ cha, kính mẹ vẹn bầu
bạn lân…
[1]Trần Hưng Đạo Đại vương
2.
TRẦN KHẮC CHUNG
Trần Khắc Chung vốn thân
họ Đỗ
Người thông minh, ứng phó
lẹ nhanh
Lại thêm gan dạ xông thành
Lại thêm gan dạ xông thành
Hiểm nguy chẳng ngán, cộng
ranh mãnh nhiều…
Khi chọn sứ trước triều
xin bước
Nhờ công này đã được làm
to
Vốn từng thông đạt hiền
nho
Có công hầu hạ lẫn phò tá vua.
Có công hầu hạ lẫn phò tá vua.
Sau chiến trận, Nguyên
thua phải rút
Luận công đầu, kết cuộc
Chung lên
Chức danh Thủ tướng vang
rền
Người khen cũng lắm, kẻ
rên rỉ nhiều.
Công lớn nhất là liều cứu
mạng
Giúp Huyền Trân thoát nạn đất Chiêm
Sử ghi còn lắm tỵ hiềm
Giúp Huyền Trân thoát nạn đất Chiêm
Sử ghi còn lắm tỵ hiềm
Thật hư khó biết việc
nghiêm trọng này…
3.
THANH MAI TRÚC MÃ
Nghe đồn rằng, Chung say
công chúa
Ngay khi còn thuộc lứa
tráng niên
Vào ra tỏ vẻ ngoan hiền
Lấy lòng quân trưởng, vốn
thiên bẩm chàng.
Lập công trội cho nàng chú
ý
Được vua thương nên ỷ lại
nhiều
Lắm khi hoa bướm bồng
phiêu
Làm cho công chúa cũng
liêu xiêu lòng.
Hầu hạ vua vào cung cũng
dễ
Nên đôi tình chẳng nệ nắng
mưa
Hình như khớp ái tim vừa
Thời gian hò hẹn chẳng
thưa thớt nào…
Rồi bỗng dưng đảo chao
duyên nợ
Cha gả nàng vào chỗ ngoài
biên
Từ nay cách trở trăm miền
Vì lo nghĩa lớn đành biền
biệt nhau…
4.
CHẾ MÂN
Chế Mân đã dẫn đầu Chiêm
quốc
Chống Nguyên-Mông, giữ gốc quốc gia
Chống Nguyên-Mông, giữ gốc quốc gia
Thắng trận, nối nghiệp vua
cha
Huy hoàng, rực rỡ lộng ca khúc
đời.
Trần Nhân Tông ướm lời gả cưới
Vì xét rằng trên dưới đều sung
Trần Nhân Tông ướm lời gả cưới
Vì xét rằng trên dưới đều sung
Xứng danh một đấng anh
hùng
Vì dân, vì nước chí nung
nấu tràn.
Mấy tháng trời vua Trần dò
xét
Thấy yên lòng đẹp nết vua
Chiêm
Cầu hôn qua lại trang
nghiêm
Những mong rước sớm để chiêm ngưỡng hoài.
Những mong rước sớm để chiêm ngưỡng hoài.
Của hồi môn châu ngoài
biên viễn
Đất hai vùng khẩn nguyện
dâng trao
Rí, Ô Đại Việt thêm vào
Huyền Trân lên kiệu, tâm
dào dạt vương…
5.
VƯƠNG HẬU CHIÊM QUỐC
Đám cưới lớn, dân thường
nghỉ việc
Suốt bảy ngày yến tiệc
linh đình
Chế Mân đón rước tận tình
Ra tận bờ biển với linh
vật thờ.
Áo bào trắng, quần bo cũng
trắng
Khoác giáp ngoài, hia
thắng đầu voi
Vỏ kiếm vàng, chuôi ngà
voi
Ngực thắt đai ngọc, mũ
ngời ngợi sang…
Trong hoa cưới cùng chàng
sánh bước
Nở nụ cười khắp trước thần
dân
Chiêm Thành ngưỡng mộ
Huyền Trân
Trai tài gái sắc thỏa ân
ái nguyền.
Giữa triều đình vua tuyên
chức phận
Phong cho làm vương hậu
Chiêm bang
Từ nay Chiêm-Việt chung
sàng
Một thiên tình sử đẫm bàng
bạc thơ…
6.
KHÚC ĐOẠN TRƯỜNG
Mười một tháng ai ngờ đứt
đoạn
Chế Mân chàng gặp nạn từ
không
Huyền Trân góa phụ mất
chồng
Mới Hai mấy tuổi đã mông
quạnh tình.
Thật tiếc cho quế xinh héo
rụi
Tại ông trời xui rủi nhiều
phen
Từ nay bặt trống, vắng kèn
Phòng loan quạnh quẽ đẫm
đen nghịt sầu.
Nào đã hết, bụng bầu con
dại
Trứng nước này nàng phải
làm sao
Lệ tràn trách mãi trời cao
Làm cho duyên phận chịu
lao đao đời.
Theo tục lệ, làm người
thiêu hỏa
Cùng Chế Mân hồn tỏa về
thiên
Hồng nhan bạc phận chung
thuyền
Chết theo chồng cũ, đủ
uyên ương này…
7.
MƯU GIẢI CỨU CỦA KHẮC CHUNG
Đai Việt thấy thảm thay
vóc trẻ
Lệnh cho người bất kể cứu
ra
Khắc Chung tình nguyện
vượt hà
Quyết đem công chúa khỏi
sa sẩy về.
Liền kiếm một gái quê rất
đẹp
Giống y nàng, khép nép
hồng nhan
Lựa thời lập thế sẵn toan:
“Thay kèo, đổi cột” khéo
hoàn thiện mưu.
Bèn dụ khị phân ưu mép
biển
Thừa cơ làm giặc hiểm nổi
lên
Tráo người, giục ngựa phi liền
Tráo người, giục ngựa phi liền
Đưa về thuyền sẵn, tưởng
phiền não lui.
Nào có hay, thật xui tận
mạng
Vừa cứu này cũng chẳng
Huyền Trân
Người Chiêm tráo giả khi
cần
Khắc Chung tức giận, đao
phân thây nàng.
8.
MƯU GIẢI CỨU CỦA CHẾ MÂN
Dọc cũng dở. mà ngang cũng
tệ
Khắc Chung sầu chẳng thể
làm chi
Bỗng nghe trước trướng rẩm
rì
Một đoàn người ngựa thoắt
di động vào.
Vừa thấy mặt bỗng gào to
tiếng
Kìa Huyền Trân! hiển hiện
thịt xương
Oanh vàng, dáng ngọc đế
vương
Đích là người thật, dậy thương cảm lòng.
Đích là người thật, dậy thương cảm lòng.
Bèn hỏi chuyện, sao không
tử hỏa
Nhờ Chế Mân chẳng đọa giàn thiêu
Nhờ Chế Mân chẳng đọa giàn thiêu
Tráo người, giống kiểu
Chung mà
Chờ khi vắng vẻ vượt qua
mặt thành.
Ôi, tình yêu lá cành diễm
tuyệt
Cả hai chàng tuấn kiệt chở
che
Dùng mưu thoát cảnh tan bè
Người nay đọc lại thấy hê
hả cùng.
9.
NỐI KHÚC TÌNH XƯA
Phút hạnh ngộ, trùng phùng
tha thiết
Nước mắt trào, da diết
niềm thương
Giục nhau hãy vội lên
đường
Ra ngoài cấm địa sẽ tương
hợp tình.
Giữa biển trời, nước xanh mây
trắng
Đôi nhân tình ngước lặng
nhìn nhau
Thời gian dù có thay màu
Tình yêu vẫn thế, vẫn đau
đáu nguyền.
Trời giông gió đưa thuyền
cập đảo
Tạm lên bờ qua bão rồi đi
Lửa-Rơm bén ngậy xuân thì
Cùng làm dân giả đẫm thi
họa bừng.
Thoáng chốc đã gần lưng năm
trọn
Dẫu tiên thần vẫn muốn về
quê
Trời yên biển lặng dong bè
Thăng Long trở lại dậy bề
bộn tim…
10.
NƯƠNG VÀO CỬA PHẬT
Tuy thoát khỏi cảnh dìm bể
lửa
Nhưng ngoại giao lần lữa
nào êm
Vua cha khuyên nhủ trước thềm
Quy y nẻo Phật hẳn êm ả đời.
Vua cha khuyên nhủ trước thềm
Quy y nẻo Phật hẳn êm ả đời.
Một lần nữa vâng lời cha
nhắc
Chùa Vũ Ninh, Kinh Bắc
nhập tu[2]
Hương Tràng Thích Nữ trầm
tư
Nâu sồng, dưa muối ước thư
thả lòng.
Sau khi tịch, được phong
tước hiệu
Qua mỗi đời. linh diệu
hằng thêm
Lắm nơi dựng tượng, am
thiền
Nhất là Quảng Trị, Thừa
Thiên rất nhiều.
Ngay tại Huế, nhiễu điều
phủ điện
Cúng tế ngày Mổng Chín,
tháng Giêng
Hai châu Thuận Hóa chung miền
Hai châu Thuận Hóa chung miền
Huyền Trân một gái mà
thuyên chuyển về…
HANSY
[2] tỉnh Bắc Ninh
Ghi chú:
Huyền Trân công chúa [玄珍公主] sinh năm 1288, con của vua Trần Nhân Tông.
Huyền Trân công chúa [玄珍公主] sinh năm 1288, con của vua Trần Nhân Tông.
Năm 1306, Huyền Trân công chúa
được gả cho Quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân [Jaya
Sinhavarman III] để đổi lấy hai châu Ô, Lý [từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên - Huế đến phía bắc Quảng Trị ngày
nay].
Một năm sau, Chế Mân chết, Huyền Trân
công chúa được vua Trần Anh Tông sai Trần Khắc Chung cướp về, sau đó xuất gia.
Bà mất ngày Mồng 9 tháng Giêng năm 1340
Bà mất ngày Mồng 9 tháng Giêng năm 1340
Nhận xét
Đăng nhận xét