SAO LẠI NÓI CHỮ QUỐC NGỮ VIỆT NAM RẤT NỰC CƯỜI?
SAO LẠI NÓI
CHỮ QUỐC NGỮ VIỆT NAM
RẤT NỰC CƯỜI?
Tác giả: Nguyễn Hải Hoành
Trung Quốc thời hiện đại có một học
giả rất nổi tiếng là Quý Tiễn Lâm (季羡林Ji Xian-lin,
1911-2009), người được dư luận chính thống nước này tôn vinh là “Quốc học đại sư”,
“Học giới Thái đẩu” (Siêu sao trong giới học thuật), “Quốc bảo” (Báu vật của nước
nhà)… Cụ Quý chủ trương đề cao nền văn hóa truyền thống TQ, từng đưa ra thuyết
“30 năm nước chảy bên Tây, 30 năm nước chảy bên Đông”, khẳng định trong thế kỷ
XXI văn hóa TQ sẽ thay thế văn hóa phương Tây trở thành dòng chính trong văn
hóa thế giới, chiếm địa vị lãnh đạo toàn cầu. Cụ còn đứng đầu phái chống lại việc
cải cách chữ Hán ở TQ và vì thế càng được những người Hoa theo chủ nghĩa dân tộc
hết lời ca ngợi.
Không lâu trước khi qua đời, cụ
có nói mấy câu có tính trăng trối về vấn đề chữ Hán. Lẽ ra chúng ta chẳng cần
quan tâm chuyện ấy nếu như ở đây cụ Quý không mang chữ Quốc ngữ Việt Nam ra làm
ví dụ thuyết minh quan điểm của mình, hơn thế lại còn nhận xét không tốt về chữ
Quốc ngữ, có ý cho rằng Việt Nam thất bại trong việc cải cách chữ viết. Nhân
chuyện này, chúng tôi đã tìm hiểu xem dư luận TQ nghĩ gì về vấn đề trên, qua đó
thấy nhiều người TQ, kể cả giới trí thức đều hiểu sai và a dua nhau nhận xét
không chính xác về ngôn ngữ cũng như các vấn đề khác của Việt Nam. Trong tình
hình đó dĩ nhiên cần phải vạch ra chỗ sai của họ.
Mấy câu trên của cụ Quý đăng
trong bài viết có tiêu đề “Cụ Quý Tiễn Lâm bàn về Quốc học” phát trên một blog.
Bài ấy lập tức được dân mạng TQ nhao nhao chia xẻ và bình luận, dấy lên một dư
luận mạnh mẽ đòi phục hồi chữ phồn thể. Một lần nữa, sự chia rẽ quan điểm của
người TQ về vấn đề cải cách chữ Hán lại bùng lên và tiếp diễn cho tới nay.
Nội dung bài blog nói trên như
sau:[1]
“Chiều qua đến Y viện 301 thăm cụ
Quý Tiễn Lâm. Cụ khỏe mạnh tỉnh táo, nói nhiều lời hay ý đẹp. Khi bàn tới việc
phổ cập Quốc học, cụ nói một số ý kiến.
1-
Sở dĩ nền văn minh Trung Hoa có
thể kéo dài tới ngày nay, chữ Hán có tác dụng lớn. Đọc văn cổ tất phải đọc chữ
phồn thể, mọi thông tin của văn hóa TQ đều ở trong chữ phồn thể;
2-
Đơn giản hóa và ghi âm hóa chữ
Hán là chủ trương sai lầm, tổ tiên ta dùng [chữ Hán phồn thể] đã mấy nghìn năm
đều không cảm thấy bất tiện, cớ sao [khi] tới tay chúng ta thì [chữ phồn thể bị]
từ bỏ? Theo đuổi hiệu suất không phải là lý do để đơn giản hóa chữ Hán. Chữ viết
của Việt Nam sau khi được ghi âm hóa, đầu đội mũ, chân đi giày, rất nực cười. Cụ
Quý chú trọng nói về chuyện đáng tiếc gây ra bởi việc đơn giản hóa chữ Hán năm
xưa, khi chữ “hậu” trong “Hoàng hậu” [vợ vua] và chữ “hậu” trong “dĩ hậu”
[về sau] bị làm thành cùng một chữ;
3-
Dùng lời văn hiện đại để dịch
thư tịch văn cổ [cổ văn kim dịch] là cách hủy diệt văn hóa Trung Hoa, [đọc văn
cổ] phải đọc nguyên văn, thêm chú thích là được;
4-
“Chấn hưng quốc học tất phải nắm
ngay từ lũ con nít” – cụ đặc biệt chỉ ra, Quốc học giảng dạy cho người lớn nên
khác với Quốc học dạy cho trẻ em, phải dụng tâm suy nghĩ biên soạn giáo trình.
Các ý kiến nói trên của Quý Tiễn
Lâm được đông đảo dân TQ sôi nổi bình luận theo cả hai hướng ủng hộ và phản đối.
Đáng tiếc là họ lại không nói gì về lời nhận xét chữ Quốc ngữ Việt Nam “rất nực
cười”. Có thể vì câu đó khó hiểu, hoặc vì người TQ không biết về ngôn ngữ Việt
Nam nên ngại bình phẩm lời của một đại gia họ sùng bái hết mực.
Bởi thế trước hết chúng ta nên
tìm hiểu xem câu “Chữ viết của Việt Nam sau khi được ghi âm hóa, đầu đội mũ,
chân đi giày, rất nực cười”[2] muốn nói lên ý gì? Câu này chiếm khoảng
gần 1/10 tổng số chữ Hán trong bài blog nói trên.
Theo chúng tôi, câu này nên hiểu
là: Việt Nam sau mấy nghìn năm dùng chữ Hán (là loại chữ ghi ý) đã tiến hành cải
cách chữ viết theo hướng bỏ chữ Hán, chuyển sang dùng chữ Quốc ngữ (là loại chữ
ghi âm viết bằng chữ cái Latin ghép lại), thứ chữ abc này của Việt Nam có hình
thức khác với chữ Latin thường thấy trong Anh ngữ, Pháp ngữ… ở chỗ các từ có thêm
nhiều dấu (sắc huyền hỏi ngã nặng…) ở trên và dưới chữ, giống như chữ Latin được
“đội mũ đi giày”, trông rất buồn cười.
Ở đây chúng tôi có tham khảo nhận
xét của một học giả TQ lớp trước về chữ Quốc ngữ Việt Nam: 100 năm trước, đại học
giả có ảnh hưởng nhiều tới Quý Tiễn Lâm là Hồ Thích (1891-1962) từng nói:
Chữ viết Việt Nam hiện nay xem
ra giống như chữ Pháp bị nước mưa xối tan ra, giống như phiên bản Latin của chữ
hình vuông, vừa không thanh thoát cũng chẳng mỹ quan. Việt Nam từng dùng chữ
Hán lâu dài và phát minh ra chữ Nôm của mình, về sau chịu ảnh hưởng của thực
dân Pháp mà triệt để Latin hóa chữ viết, vì thế mà có thứ chữ “Tứ bất tượng”
([bốn thứ chẳng giống] chữ Pháp, chữ Hán, chữ Nôm, chữ Latin).
Ở đây Tứ bất tượng còn
có nghĩa là không đâu vào đâu, chẳng ra cái giống gì.
PHẢN BIỆN
PHẢN BIỆN
Có lẽ họ Hồ và họ Quý nhận xét
như vậy về chữ Quốc ngữ là do họ chưa hiểu vì sao chữ Quốc ngữ phải có thêm các
dấu vào phía trên, dưới các chữ cái. Những dấu ấy thể hiện đặc điểm của tiếng
Việt: đơn âm, có nhiều âm tiết, nhiều thanh điệu. Tiếng Việt có 6 thanh điệu,
vì thế chữ Quốc ngữ phải có 5 dấu giọng thể hiện các thanh điệu sắc,
huyền, hỏi, ngã, nặng, ngoài ra còn có dấu thể hiện âm đọc của các chữ ă, â, đ,
ô, ơ, ư. Dân ta có câu “Ô thì đội nón, Ơ thì thêm râu” là thế. Các giáo sĩ châu
Âu khi dùng chữ cái Latin để ghi âm tiếng Việt đã sáng tạo ra 5 ký hiệu (dấu)
thể hiện 5 thanh điệu và các chữ cái có thêm dấu như â, ă, đ, ê, ô, ơ, ư.
Nhờ những sáng tạo tuyệt vời đó, chữ Quốc ngữ ghi được 100% ngữ âm tiếng Việt,
thực hiện được yêu cầu nghĩ và nói thế nào thì có thể viết đúng như thế; viết
thế nào thì có thể đọc, nói đúng như thế. Đây là một yêu cầu rất cao về tính
chính xác của ngôn ngữ, không phải tất cả các loại chữ viết trên thế giới đều
có thể đạt được. Ví dụ ở Hán ngữ, cùng một chữ có thể đọc theo mấy âm khác nhau
hoặc cùng một âm có hàng trăm chữ viết khác nhau, làm giảm tính chính xác của
ngôn ngữ.
Hai vị nói trên từng học lâu năm
ở phương Tây, giỏi nhiều ngoại ngữ (cụ Quý học 8 năm ở Đức, biết 11 ngoại ngữ),
quen đọc sách báo Âu Mỹ, cho nên khi thấy chữ Quốc ngữ rặt những từ đơn âm và
có nhiều dấu thêm vào phía trên hoặc dưới chữ cái, trông như “đội mũ, đi giày”
sẽ có cảm giác lạ mắt, cho là không đẹp.
Người Việt Nam không có cảm giác
ấy mà ngược lại nếu thấy thiếu những dấu đó thì rất khó chịu, tuy rằng vẫn có
thể đọc hiểu. Thực ra các dấu này đều có thể thay bằng một chữ cái. Ví dụ dấu sắc
thay bằng chữ s, dấu huyền thay bằng chữ f… viết ở cuối mỗi từ, hoặc chữ đ viết
bằng hai chữ d, chữ ô bằng hai chữ o, chữ ă bằng aw… như cách hiện nay ta thường
gõ phím máy tính. Có lẽ do thói quen, dân ta thích viết và đọc chữ có dấu hơn.
Tiếng nói một số dân tộc châu Á
cũng có nhiều thanh điệu, vì vậy chữ viết Latin hóa của họ buộc phải thêm các dấu
thanh điệu. Tiếng phổ thông TQ có 4 thanh điệu, vì thế chữ Latin trong
phương án Hán ngữ Pinyin do Nhà nước TQ ban hành sử dụng từ năm 1958 cũng phải
kèm theo 4 dấu giọng, ví dụ [lī], [lí], [lǐ], [lì], ngoài ra các phụ âm kép như
zh, ch, sh có thể viết tắt là ẑ, ĉ, ŝ. Như vậy chữ Hán ngữ Pinyin cũng “đội mũ”
, vì sao cụ Quý Tiễn Lâm lại chỉ chê chữ Quốc ngữ Việt Nam “rất nực cười”?
Chữ Pháp cũng dùng với tần suất
không lớn một vài dấu hệt như dấu sắc, huyền, dấu mũ (dấu hình nón) ở tiếng Việt;
chữ Bồ Đào Nha có cả dấu ngã “~”. Như vậy chữ Pháp, Bồ Đào Nha cũng “đội
mũ” như chữ Việt Nam. Lẽ nào hai học giả họ Hồ và họ Quý biết nhiều ngoại
ngữ lại không để ý tới điều đó?
Thực ra việc hai vị ấy nhận xét
chữ Việt Nam kém mỹ quan cũng không đáng quan tâm, vì đó là cảm nhận riêng của
họ. Điều đáng chú ý là Quý Tiễn Lâm dựa vào đấy để ngầm nhận xét Việt Nam cải
cách chữ viết thất bại và lấy đó làm cái cớ biện luận rằng chữ Hán chớ nên
Latin hóa theo cách chữ Việt Nam đã làm.
Đáng phê phán hơn nữa là nhiều
người TQ do sùng bái cụ Quý nên đã đồng ý với quan điểm ấy và a dua nhau phát
biểu những nhận thức sai lệch về Việt Nam và tiếng Việt. Chẳng hạn có người TQ
nói chữ Quốc ngữ Việt Nam là phương ngữ Quảng Đông (còn gọi là phương ngữ Việt粤方言) được Latin hóa, Việt Nam bỏ chữ Hán là một sai lầm lịch
sử, hoặc nói Việt Nam sau 1945 mới bỏ chữ Hán và chữ Nôm, chủ yếu xuất phát từ
nhu cầu chính trị muốn độc lập “thoát Hán”. Vừa qua nhân dịp một vài học giả Việt
Nam kiến nghị cho trẻ em ta học thêm chữ Hán, trên truyền thông TQ xuất hiện những
bài viết với đầu đề đại để như “Việt Nam hối tiếc vì bỏ chữ Hán”…
Người TQ có các nhận thức nói
trên là do họ hiểu sai về nguồn gốc dân tộc ta và về tiếng Việt. Nước ta thời cổ
không có chữ viết để chép sử, phải mượn dùng chữ Hán hai nghìn năm, trong đó
hơn nghìn năm từng là quận huyện của TQ, cho nên chính người Việt Nam cũng dễ
tin theo quan điểm của các sách sử TQ viết về nguồn gốc dân tộc ta. Nhiều người
TQ hiện nay vẫn nghĩ rằng người Việt Nam thời cổ thuộc tộc Lạc Việt, một trong
các bộ tộc ở phía Nam sông Trường Giang mà họ gọi vơ đũa cả nắm là Bách Việt,
tương tự như các tộc người Phúc Kiến, Quảng Đông, Giang Tô, v.v… Các tộc này đều
thuộc chủng tộc Hán (tỷ lệ người Hán tại ba tỉnh nói trên là 97,6%; 94,1% và
99,64%; số liệu 2015), họ chủ yếu nói các phương ngữ Mân, Việt, Ngô của tiếng
Hán. Các phương ngữ đó đều thuộc cùng một ngữ hệ Hán-Tạng, vì thế theo lẽ tự
nhiên chữ Hán có thể ghi được tiếng mẹ đẻ của các tộc này và do đó không có vấn
đề Hán hóa các tộc Bách Việt.
Thực ra dân tộc Việt Nam
khác hẳn các tộc Bách Việt về chủng tộc, về văn hóa và nhất là về ngôn ngữ. Các
thành tựu khảo cổ gần đây càng khẳng định ưu thế của giả thuyết cho rằng dân tộc
Việt Nam thời cổ là cư dân bản địa (như người Mường) chứ không phải là dân Bách
Việt di cư xuống miền Nam, như quan niệm của người TQ. Tiếng Việt thuộc nhóm
ngôn ngữ Môn-khmer trong ngữ hệ Nam Á, khác hẳn ngữ hệ Hán-Tạng, và tuyệt
đối không phải là một phương ngữ của tiếng Hán, thể hiện rõ nhất ở chỗ có nhiều
âm tiết hơn và khác hẳn về ngữ pháp; bởi vậy chữ Hán không thể nào ghi được tiếng
Việt. Cho dù đã dùng chữ Hán hai nghìn năm nhưng nước ta vẫn không bị Hán hóa
như phong kiến TQ mong muốn, và không thể có một nền văn học tiếng Việt, chỉ có
một nền văn học chữ Hán nghèo nàn (các học giả Đặng Thai Mai, Hoài Thanh…không xếp
vào loại văn học dân tộc ta). Chữ Hán chỉ được tầng lớp quan chức và trí thức
Việt Nam dùng trong công việc hành chính, giao tiếp với TQ, ghi chép sự việc,
làm văn thơ theo kiểu văn thơ TQ…, và đọc bằng âm Hán-Việt. Để xây dựng một nền
văn hóa dân tộc, tổ tiên ta đã tự sáng tạo ra chữ Nôm, và cuối cùng chấp nhận
dùng chữ Quốc ngữ do các giáo sĩ châu Âu làm ra. Cả hai thứ chữ này đều ghi âm
được tiếng Việt nhưng chữ Quốc ngữ hoàn thiện hơn.
Quá trình người Việt Nam bỏ chữ
Hán chữ Nôm, chuyển sang dùng chữ Quốc ngữ là một quá trình tự nhiên, tự nguyện,
chủ yếu vì chữ Quốc ngữ ghi được 100% tiếng Việt và dễ học, dễ nhớ, dễ viết, dễ
dùng, hơn hẳn các loại chữ tổ tiên ta đã biết. Quá trình chuyển đổi chữ viết
này rất thuận lợi, nhanh chóng thành công trên cả nước, tuy mới đầu có gặp sự
phản đối yếu ớt từ một số ít nhà Nho cổ hủ. Tất nhiên sự ủng hộ của chính quyền
cai trị cũng góp phần thúc đẩy quá trình đó. Trong thời gian ngắn, nước ta xuất
hiện một nền văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí tiếng Việt và phát triển rầm
rộ chưa từng thấy. Nói Việt Nam thất bại trong cải cách chữ viết là hoàn toàn
sai lầm.
Rõ ràng, các giáo sĩ tham gia
làm chữ Quốc ngữ như Antonio Barbosa, Gasparo d’Amiral, Alexandre de Rhodes,
Francesco de Pina, Cristoforo Borri, Pigneau de Béhaine,…không chỉ giàu nhiệt
tình tạo chữ ghi âm tiếng Việt mà còn có kiến thức cao siêu về ngôn ngữ học, nhờ
thế tuy ít người và làm việc phân tán nhưng họ đã hoàn thành một sáng tạo vĩ đại trong
lịch sử ngôn ngữ học thế giới: lần đầu tiên dùng chữ cái Latin làm ra một
loại chữ ghi âm thành công tiếng nói của một dân tộc châu Á, tạo ra cho người Việt
Nam một hệ thống chữ viết hoàn toàn mới, Latin hóa, ghi âm chính xác 100%
tiếng Việt. Đây là món quà vô giá dân tộc ta nhận được từ nền văn minh Ki Tô
giáo trong quá trình giao tiếp văn hóa Đông Tây.
Trên thế giới không có loại chữ
viết nào tuyệt đối hoàn hảo; chữ Quốc ngữ cũng vậy. Dù sao nó thích hợp nhất với
tiếng Việt. Do được Latin hóa nên việc mã hóa chữ Quốc ngữ để đưa tiếng Việt
vào máy tính trở nên rất thuận tiện, không mất hàng chục năm nghiên cứu như việc
mã hóa chữ Hán.
Thực ra từ thế kỷ XVII trở đi,
các giáo sĩ châu Âu cũng hăng hái nghiên cứu dùng chữ cái Latin ghi âm tiếng TQ
nhưng tất cả đều thất bại do gặp những khó khăn không thể vượt qua. Mọi cố gắng
theo hướng đó của các học giả TQ về sau cũng vậy.
Năm 1605, nhà truyền giáo Matteo
Ricci đầu tiên đề ra phương án dùng chữ cái Latin để ghi chú âm cho chữ Hán.
Sau đó nhiều người TQ tiếp tục các nghiên cứu theo hướng đó, bắt đầu từ phương
án chữ ghi âm tiếng Hán do Lô Tráng Chương đề xuất năm 1892. Tới năm 1958, sau
khi bỏ ra cực nhiều công của, nhà nước CHND Trung Hoa mới làm ra được một
phương án dùng chữ Latin để ghi chú âm chữ Hán, gọi là Phương án ghi âm
Hán ngữ (Hanyu Pinyin Fangan). Nhưng đây chỉ là một bộ chữ Latin thể hiện
âm đọc của từng chữ Hán, chỉ có chức năng làm công cụ hỗ trợ học và dùng chữ
Hán mà chưa phải là một hệ thống chữ viết ghi âm hoàn chỉnh có thể thay cho chữ
Hán.
Nói cách khác, người TQ chưa làm
ra một hệ chữ viết Latin ghi âm được Hán ngữ. Các cố gắng của họ theo hướng này
dường như đã chấm dứt sau một quyết định năm 1986 thống nhất từ nay không đặt vấn
đề ghi âm hóa chữ Hán.[3] Công cuộc cải cách chữ Hán từ đó dừng
lại ở tình trạng dùng “song ngữ”, tức chữ Hán kèm bộ chữ Pinyin Hán ngữ. Hầu
như toàn bộ người TQ dùng điện thoại thông minh và máy tính đều biết sử dụng
thành thạo bộ chữ Pinyin để đánh máy chữ Hán.
Trong các dân tộc từng dùng chữ
Hán, duy nhất Việt Nam nhờ có chữ Quốc ngữ mà đã hoàn toàn “Thoát Hán” về ngôn
ngữ, “thoát” một cách nhanh gọn, không chút dính dấp tới chữ Hán. Người Triều
Tiên cũng sáng tạo được chữ Hangul là loại chữ ghi âm nhưng vẫn gặp khó khăn về
các chữ/từ đồng âm, họ vẫn cần dùng chữ Hán để ghi chú nghĩa của một số từ, nhất
là các từ về pháp lý.[4] Người Nhật tuy sáng tạo được loại chữ
ghi âm Kana nhưng Nhật ngữ hiện nay vẫn phải dùng khoảng 2000 chữ Hán. Như vậy
nghĩa là hai dân tộc ấy chưa hoàn toàn “Thoát Hán” về ngôn ngữ.
Có thể thấy chữ Quốc ngữ thực sự
là một sáng tạo phi phàm, một thành tựu lao động trí tuệ xuất sắc của các nhà
truyền giáo đạo Ki Tô người châu Âu – những người hiến dâng đời mình cho sứ mệnh
truyền bá học thuyết của Chúa Jesus ấy khi sáng tạo ra chữ Quốc ngữ không biết
rằng họ đã làm được một cống hiến vĩ đại cho dân tộc Việt Nam. Các giáo dân
vùng Quảng Nam, Bình Định, Quy Nhơn, Phú Yên… từng đóng góp phần đáng kể vào sự
hình thành và truyền bá chữ Quốc ngữ. Tiếp đó, công lao hàng đầu trong sự nghiệp
bảo vệ và truyền bá phổ cập chữ Quốc ngữ thuộc về các nhà sáng lập phong trào
Đông Kinh Nghĩa Thục, các học giả Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh…,
cùng hàng triệu người tham gia phong trào Truyền bá Quốc ngữ và Bình dân học vụ.
Học giả Phạm
Quỳnh ca ngợi Chữ Quốc ngữ là công cụ giải phóng trí tuệ của
người Việt Nam. Đúng thế, chữ Quốc ngữ mở ra không gian vô tận cho tư duy của
người Việt, bất kỳ ý nghĩ nào cũng có thể ghi lại bằng chữ – điều này trước đây
chưa bao giờ thực hiện được. Chữ Quốc ngữ dễ học, dễ nhớ, dễ đọc dễ viết; nhờ
thế chỉ trong một thời gian ngắn nước ta đã xóa được nạn mù chữ, nâng cao vượt
bậc trình độ hiểu biết của dân chúng. Kho tàng tiếng Việt giàu có hơn bao giờ hết,
có thể diễn dịch mọi thành tựu mới nhất của nhân loại về khoa học kỹ thuật,
khoa học xã hội-nhân văn…
Nhờ thế nền văn minh Việt
Nam phát triển nhanh chóng, toàn diện, hòa nhập xu thế toàn cầu hóa. Với khoảng
gần 90 triệu người dùng, chữ Quốc ngữ trở thành ngôn ngữ viết top 25 thế giới…
Các thành tựu của chữ Quốc ngữ rất to lớn, trên đây chỉ có thể lướt qua vài điểm.
Hãy tưởng tượng nếu ngày nay nước ta vẫn dùng chữ Hán, chữ Nôm thì nền văn minh
Việt Nam sẽ lạc hậu thảm thương như thế nào. Chữ Hán không ghi âm được tiếng Việt,
chữ Nôm ghi âm được tiếng Việt nhưng khó gấp nhiều lần chữ Hán, phải biết chữ
Hán mới học được chữ Nôm. Với hai loại chữ vuông đó sao có thể truyền bá được
các giá trị văn hóa tư tưởng hiện đại, các khái niệm khoa học kỹ thuật… và xây
dựng ngành văn hóa giáo dục, văn học, báo chí, truyền thanh truyền hình, xuất bản…
với quy mô như ngày nay?
Rõ ràng chữ Quốc ngữ là di sản
phi vật thể lớn nhất, giá trị nhất chúng ta nhận được từ tổ tiên mình – những
người góp phần không nhỏ giúp các nhà truyền giáo châu Âu làm ra chữ Quốc ngữ
và sau đó đồng tâm nhất trí chấp nhận dùng thứ chữ này.
Nguyễn Hải Hoành
là dịch giả và nhà nghiên cứu tự
do hiện sống tại Hà Nội. Một phiên bản của bài viết đã được đăng trên tạp
chí Văn hóa Nghệ An số 353 (24/11/2017).
———————
[4] Tiếng Triều/Hàn nghèo âm tiết, cho nên vấn đề từ
đồng âm khá phức tạp. Ví dụ hai từ gốc Hán chú ý và chủ nghĩa,
tiếng Triều/Hàn đều đọc và viết là “ju-i”, hoặc các từ kị sĩ , ký
sự, kỹ sưđều đọc và viết là “ki-sa”, vì thế dễ gây nhầm lẫn. Trong trường
hợp cần phân biệt chính xác các từ đồng âm, sách báo tiếng Hàn thường ghi chú bằng
chữ Hán trong ngoặc đơn.
Nhận xét
Đăng nhận xét