VỀ TRUYỆN NGẮN BẮT ĐẦU VÀ KẾT THÚC
VỀ TRUYỆN NGẮN
BẮT ĐẦU VÀ KẾT THÚC
BẮT ĐẦU VÀ KẾT THÚC
Mọi người muốn tôi viết một bài về truyện ngắn Bắt đầu và kết
thúc của nhà văn trẻ Trần Quỳnh Nga, đăng trên báo Văn nghệ số 50, 2017.
Người phát hiện truyện ngắn này là cụ Hoàng Quốc Hải. Cụ nói chuyện với tôi qua
điện thoại với sự giận dữ về “một áng văn chương phản lịch sử”.
Đọc đi đọc lại Bắt đầu và kết
thúc, tôi thấy không có gì đáng viết. Tốt nhất hãy để tờ báo văn nghệ này chết
hẳn trong lòng bạn đọc sau những vụ lùm xùm đấu đá, những nợ nần và những cầu cứu
các nguồn tài trợ trong lẫn ngoài nước. Nhưng đã lỡ hứa với cụ Hoàng Quốc Hải
nên đành phải viết, coi như giúp cho tờ báo mình thích một thời sống thêm. Hơn
nữa có người bạn vừa khoe hình em Quỳnh Nga xinh đẹp vào inbox của tôi để câu
view, bèn viết cho em nó vài dòng để giúp em nó nổi tiếng thì cũng đáng bậc mày
râu.
Thực ra, văn chương phản lịch sử
là chuyện thường tình. Xưa nay từng có không ít tác phẩm văn học phản lịch sử,
bằng hư cấu bất tận trong và ngoài sự kiện lịch sử, thậm chí bác bỏ lịch sử để
thay đổi nhận thức về lịch sử. Ngay từ thời cổ đại, Aristotle đã từng khẳng định: Thơ
thật hơn lịch sử. Thơ mà ông nói ấy mang nghĩa văn chương nói chung, gồm sử
thi, bi kịch và hài kịch. Hư cấu không là chuyện mơ mộng viễn vông mà
là khơi sâu vào bản chất của sự kiện, đánh thức sự kiện, làm cho cái xác của sự
kiện trỗi dậy thành sinh thể có hồn. Sử gia không thể và không được phép làm điều
nhà văn được phép làm, bởi chức năng của anh ta là chỉ tái hiện sự kiện và đánh
giá trên cái xác của sự kiện. Lịch sử chỉ là nấm mộ của quá khứ điêu tàn. Văn
chương sống động bởi cái quá khứ ấy được thổi vào một linh hồn sống động như là
cái hiện tại đang diễn ra.
Xem lịch sử như một tiêu chuẩn của
sự thật là hoàn toàn sai lầm. Xét đến cùng, lịch sử hay văn chương đều là
các diễn ngôn (discourse) chứ không là sự thật đúng như nó vốn có. Với
tư cách là diễn ngôn, điều quan trọng là bằng mọi cách thể hiện, chúng mang lại
hiệu lực của niềm tin. Hiệu lực ấy do tưởng hệ, cùng với kiểm duyệt và cả hình
phạt chi phối, trong đó tư tưởng hệ đóng vai trò then chốt. Cả lịch sử lẫn văn
chương đều bị chi phối bởi một tư tưởng hệ nhất định và tư tưởng hệ đã áp đặt
lên lối viết của tác giả và niềm tin của bạn đọc. Nhưng văn chương với tư cách
là hư cấu (fiction), so với lịch sử, nó có những khoảng trống để
thoát khỏi tư tưởng hệ thống trị và tự do biểu đạt tư tưởng khác, một lối viết
khác mang lại cái nhìn khác và một niềm tin khác. Điều quan trọng là sức mạnh
sáng tạo của nó có đủ sức phản công lại lịch sử làm biến hóa lịch sử để mang lại
nhận thức và niềm tin mới về lịch sử hay không. Khi gắn sự kiện với nhân vật lịch
sử, điều khó nhất đối với nhà văn là làm thay đổi cái tượng đài lịch sử mà sử
gia đã xây dựng thành lòng tin, thậm chí tín ngưỡng trong lòng nhiều thế hệ. Rất
ít nhà văn làm được ngoài cách hư cấu thêm mắm muối cho lịch sử, và hậu quả,
văn chương thành công cụ minh họa cho lịch sử. Phải tài năng như Tư Mã Thiên,
như La Quán Trung, như Nguyễn Huy Thiệp… mới có thể làm được.
Một nhà văn trẻ như Trần Quỳnh
Nga để làm điều lật trời đổ nước đó là bất khả.
Truyện của Quỳnh Nga không phải
giải lịch sử, giải thiêng, hay giải huyền gì cả. Nó không giống lịch sử nhưng lại
trùng khít với tư tưởng hệ đang thống trị và ăn sâu trong lòng nhiều người cả
xưa và nay: tư tưởng thần phục thiên triều và quan hệ môi răng giữa hai quốc
gia dân tộc.
Mới đọc qua, người đọc rất dễ
trôi tuột vào không khí mùi mẫn của motif tình yêu trong chiến tranh. Cái không
khí này được tô đậm bởi các hoạt cảnh cổ trang, có sơn thủy hữu tình, có vườn
ngự uyển của cung đình tràn ngập hoa đào xứ Bắc, và có vó ngựa Mông-Nguyên âm
vang hùng tráng. Các đoạn miêu tả thiên nhiên, dù gắn với dòng sông Tam Trĩ,
núi Am Váp của xứ Việt nhưng lại mang màu sắc thủy mặc Tàu: “Mùa này nước lớn,
dòng sông bị kẹp giữa hai bên vách núi dựng đứng, cao vút khiến dòng sông giống
như một khe nước vừa sâu, vừa hẹp, với địa hình vô cùng hiểm trở. Từ trên đỉnh
núi nhìn xuống chỉ thấy mây trắng bồng bềnh, những ghềnh đá lởm chởm, những
khúc cua nghiêng ngả rợn ngợp”. Ngay cả vườn ngự uyển của kinh thành Thăng
Long, dù sơ sài, nhưng cũng được miêu tả y chang như trong cung đình của phim
Tàu: “Vườn ngự đẹp quá, những cành hoa sà xuống gần mặt đất non tơ cỏ xanh làm
sáng cả một góc vườn. Nó gợi lên trong lòng Thoát Hoan về một kinh thành tinh tế
và hoa lệ nhưng cũng rất đỗi gần gũi thân thuộc. Ở Trung nguyên đại lục của hắn
thiếu gì những cảnh sắc đẹp đẽ. Nhưng đẹp đến bi uất như chốn kinh thành Thăng
Long tiêu điều này thì đến bây giờ Thoát Hoan mới nhận ra được”. Tác giả không
thể biết kinh thành Thăng Long thế nào, cho nên chỉ có thể quan sát từ phim Tàu
và tìm cách Việt hóa Tàu để khỏi mang tiếng lấy truyện Tàu kể chuyện ta.
Tuy nhiên, cấu trúc truyện và giọng
văn thì sến sáo đúng chất cải lương Nam Bộ. Chiến tranh với vó ngựa Mông-Nguyên
tái hiện lại các vở tuồng cải lương thời Việt Nam Cộng hòa như Kiếp nào có yêu nhau, Tình người trên chiến trận, Đêm lạnh chùa hoang…
Riêng đoạn 6, đoạn nàng An Tư múa điệu Phi Thiên vũ thì đúng là copy
từ phim Trung Quốc đã được cải lương hóa, những cảnh mà các nàng công chúa bị
tiến cống cho giặc để làm nội gián hoặc mỹ nhân kế. Chất cải lương xuyên suốt
truyện, thấm đến giọng điệu và từng câu chữ.
“Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc-
Đệ tam hoàng tử của tông thất nhà Trần thông minh hơn người, làu thông kinh sử,
văn chương hơn người lại am tường võ nghệ trong thiên hạ ít người có thể sánh nổi.
Người đã từng mở học đường ở bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn phương quy về một
mối. Người đã nhân từ đưa tay mình ra nắm lấy tay An Tư khi nàng trở nên lạc
lõng trong chính gia tộc của mình…Con người toàn tài cả về phẩm chất lẫn tư
cách đang được kính trọng đó trong một đêm binh biến đã trở thành tội đồ, trở
thành vết nhơ cho cả hoàng tộc” (Lời An Tư nói về Trần Ích Tắc).
“Muội là công chúa thì phẩm chất
của muội cũng phải là một công chúa, phải biết đối nhân xử thế, biết thương dân
như thế muội mới được nhân dân tôn trọng và nghe theo được. Học kiếm phổ cũng
thế, hiểu được tuyệt kĩ của nó tự khắc con người ta sẽ đạt được đến đoạn tịnh độ.
Muội hãy cố gắng học được Bạch Vân kì kiếm để phòng thân khi không còn ta bên cạnh
để lo cho muội…” (An Tư nhớ lại lời Trần Ích Tắc nói với mình).
“Ta đã chọn lựa cách sống của
riêng mình và ta không hổ thẹn với nó.” (Lời của Trần Ích Tắc)
“Sống trên lưng ngựa với cung kiếm
và những trận chinh phạt trải dài từ nam chí bắc Thoát Hoan hiểu được rằng,
dòng dõi Đại hãn không bao giờ được yếu đuổi hay để chuyện riêng tư làm ảnh hưởng
đến gia tộc hùng mạnh của mình.” (Lời Thoát Hoan)…
Nhiều người ngộ nhận đây là truyện
ngôn tình, nhưng thực ra không có tình yêu nào cả. Có chăng chỉ nằm ở phần kết
thúc, nhưng được miêu tả rất giả tạo. An Tư cảm phục Thoát Hoan và tìm cách giải
thoát cho Thoát Hoan, trong khi Thoát Hoan hoàn toàn nhận ra An Tư chỉ làm công
cụ chính trị cho kế mỹ nhân của vua Trần với thái độ thù hằn và khinh miệt, kể
cả hành xử sặc mùi bạo lực: “Ta đã từng nghĩ rằng ta sẽ bóp chết nàng như bóp
chết một con nhạn”, “Hắn sẽ sống không bằng chết”… Tấm chăn bằng lụa điều An Tư
khoác lên người Thoát Hoan và cả hai cùng lên yên ngựa phóng đi trong đêm trăng
đầy lãng mạn được thay cho chiếc ống đồng quân lính khiêng chạy một cách nhục
nhã trong lịch sử không nói lên được điều gì về tình yêu hóa giải chiến tranh
và hận thù như trong motif tuồng cổ.
Đoạn này khó phân biệt với lời
thoại của những đôi tài tử – giai nhân trong cái motif phạm tội phản bội và bỏ
trốn sau chiến tranh. Thoát Hoan nói với An Tư: “Nàng cũng đã vì ta mà mang tội
che giấu kẻ thù với triều đình. Nếu cả hai việc đều bị vỡ lở thì không chỉ ta,
cả nàng cũng bị xử tội. Chi bằng chúng ta hãy chọn mở đầu để kết thúc mọi chuyện.
Chúng ta sẽ sống cho cuộc đời của chúng ta. Sẽ biến mất khỏi cuộc chiến này một
cách vĩnh viễn”. Motif này nằm trong gốc chuyện Phạm Lãi và Tây Thi, cũ như
không thể cũ hơn, nhưng lại giả tạo hơn những thứ tình yêu giả tạo từng có.
Nghệ thuật đòi hỏi phải mới và
những cái mới phải đủ sức mạnh làm đổi thay cái cũ, đặc biệt là ở thể tài lịch
sử, nếu nhà văn không muốn mình nô dịch hay minh họa cho lịch sử.
Trong nghĩa ấy, truyện của Quỳnh
Nga mới ở tư tưởng phản lịch sử. Phản lịch sử là cái nhìn táo bạo nhưng liệu có
đủ sức mạnh tấn công vào tường thành kiên cố của lịch sử hay không hoàn toàn phụ
thuộc vào tài năng của nhà văn. Gần như chảy suốt câu chuyện là dòng tâm tư của
An Tư về nhân vật lịch sử đầy tai tiếng Trần Ích Tắc. Quỳnh Nga có mượn lại lịch
sử với những chi tiết về tài năng của Trần Ích Tắc. Và có lẽ đó là căn cứ để Quỳnh
Nga thác lời An Tư với lập luận một tài năng như thế không thể là kẻ bán nước cầu
vinh. Đó là lập luận trẻ con, vì An Tư (và cả Quỳnh Nga) chưa thoát khỏi suy
nghĩ của trẻ vị thành niên, chỉ biết thần tượng hóa người mình tôn thờ. Tôi tin
chắc, đến khi trưởng thành, Quỳnh Nga sẽ hiểu sâu sắc hơn khi biết rằng, những
kẻ “văn võ toàn tài” ấy mới có tham vọng tiếm đoạt vương quyền, tráo trở và bán
nước cầu vinh, đúng như các sử gia Việt lẫn sử gia Nguyên đã viết. Xem Trần Ích
Tắc theo giặc để làm gián điệp chỉ xuất hiện gần đây với những lập luận vô bằng
chứng, phi logic và có lẽ Quỳnh Nga đã bị ảnh hưởng từ đó (tại đây và tại đây).
Và thật ngộ nghĩnh khi Quỳnh Nga để cho An Tư
xác tín niềm tin một Trần Ích Tắc yêu nước thương dân, sẵn sàng hy sinh cả gia
thế và sự nghiệp của mình để làm gián điệp qua lời của Thoát Hoan: “Chiêu văn
vương Trần Ích Tắc, một kẻ ngông cuồng, một kẻ vì nước mà hi sinh cả tiền tài,
danh vọng và thân phận của mình để làm một kẻ nội gián đáng chết”. Dựa vào lời
của giặc để xác tín cảm xúc, suy nghĩ của mình là một thủ pháp đi tìm tiếng nói
khách quan, nhưng lại chẳng có gì thuyết phục trong tình huống Thoát Hoan muốn
chiếm đoạt trái tim An Tư bằng kế vừa ly gián vừa mua chuộc xảo quyệt: “Ta đã từng
nghĩ rằng ta sẽ bóp chết nàng như bóp chết một con nhạn nhưng ta không thể. Vì
nàng đã chạm đến trái tim ta chứ không phải mưu lược của anh nàng khiến ta bị lừa
gạt. Chẳng lẽ, nàng không muốn gặp lại hoàng huynh của người sao?”. Hư cấu như
vậy là vụng hơn mèo bới đống tro, bởi phía dưới đống tro đầy nghi hoặc của kẻ
cướp nước kia lại chính là kẻ bán nước mà mình đang bị bịp. Không có chuyện phủ
định của phủ định bằng cách lấy nghi ngờ chồng lên nghi ngờ để có được lòng
tin, rằng Trần Ích Tắc là một nhà yêu nước. Tự dối lòng mình sẽ thành dối trá
hơn cả dối trá.
Vô tình hay hữu ý, Quỳnh Nga đồng
nhất Thoát Hoan với Trần Ích Tắc để đi đến một tình yêu đậm màu sắc xung đột cải
lương: “Không ai khác chính nàng sẽ tự tay giết chết hắn. Nàng nghĩ thế nhưng rồi
khi chạm phải ánh mắt của Thoát Hoan làm nàng chùng lòng. Ánh nhìn đó khiến
nàng nhớ đến ánh mắt của hoàng huynh khi đưa tay nắm lấy tay nàng hồi thơ bé”.
Thì ra cái gọi là tình yêu đây ư? Nó chẳng phải là tiếng sét ái tình, cũng chẳng
phải là vô thức của con tim. Trong tình huống đối mặt với kẻ thù đang gieo rắc
chết chóc tang thương và thân phận bị cống nạp, trái tim người con gái Việt
trao gửi tình yêu dễ dãi đến mức vậy sao? Đó là một cảm xúc lãng xẹt, chỉ có một
logic trớ trêu là tác giả xem kẻ bán nước và cướp nước đều là anh hùng và nhân
nghĩa để mỹ nhân đồng cảm, gửi trao.
Không nghi ngờ điều đó khi trong
truyện tác giả dựng lên nỗi lòng của Thoát Hoan khi diễn thuyết về tư tưởng thần
phục thiên triều: “Trước cảnh hoa đào đẹp đến lặng lẽ như thế, đột nhiên thôi,
trong lòng hắn thoáng chút bồn chồn nuối tiếc “giá Đại Việt cứ khuất phục đi,
khuất phục làm chư hầu như bao đời nay vẫn thế thì có phải những chốn thiên
thai này sẽ còn lại mãi mãi?” Đây không là tư tưởng hòa bình, lấy tình yêu chiến
thắng chiến tranh, bởi kẻ gây chiến không là nhà Trần mà là quân Mông-Nguyên.
Có chăng là một luận điệu bịp bợm, ru ngủ tinh thần đấu tranh của một dân tộc
trước họa xâm lăng. Hóa ra với cái luận điệu đó, phe chủ chiến với tinh thần
Sát Thát của quân dân nhà Trần là có tội với lịch sử, tội đưa đất nước và kinh
thành hoa lệ vào hoang tàn, tội đưa nhân dân vào cảnh đầu rơi máu chảy, kể cả tội
bôi nhọ “nhà yêu nước” đi theo con đường quy hàng của Trần Ích Tắc. Quỳnh Nga
đang nói về quá khứ thần phục thiên triều hay thực tại của những kẻ ươn hèn
mang danh tình hữu nghị đây?
Hữu nghị là cần thiết để gìn giữ
hòa bình, ổn định, nhưng có nhất thiết phải làm theo tấm gương của những triều
đại ươn hèn cống nạp cả lễ vật lẫn người trong quá khứ không?
Giải oan cho Trần Ích Tắc theo
cách ấy liệu có đủ sức mạnh làm thay đổi nhận thức lịch sử không, hay chỉ gây
phẫn nộ cho cả một dân tộc kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm giành lấy
chủ quyền suốt cả nghìn năm lịch sử? Sự thật, nhà Trần đại thắng quân Mông –
Nguyên đến ba lần, giữ vững cơ đồ đến 200 năm, chứ không phải là bên thua cuộc
chóng vánh như nhà Hồ, lẽ nào không đủ cơ hội và thời gian để chiêu tuyết cho
Trần Ích Tắc, phải đợi đến gần ngàn năm sau có một nhà văn tầm như Quỳnh Nga đứng
ra minh oan bằng những hư cấu đồng bóng?
Với cảm hứng, giọng điệu và hư cấu
theo cách ấy, không thể hiểu ngược tác phẩm, rằng nó là cái phản đề để cảnh
giác trước âm mưu của kẻ thù. Tôi đã đọc cẩn thận và cố tin theo hướng tích cực
ấy nhưng thất bại, vì để tạo ra cái phản đề cảnh giác trước âm mưu của kẻ thù,
tác giả cố công chiêu tuyết cho Trần Ích Tắc và ngợi ca Thoát Hoan để làm gì? Một
Trần Ích Tắc dù mang tiếng bán nước cầu vinh nhưng mưu lược, hết mình vì nước,
và một Thoát Hoan bề ngoài sắt máu nhưng bên trong uy dũng và đa tình ư? Cải
lương không thể hơn được!
Rốt cuộc, cả “bắt đầu” lẫn “kết
thúc” đều không có gì ngoài một áng văn mang cảm hứng đồng bóng với mục đích thần
tượng hóa kẻ thù. Cũ rích và nhạt thếch của lối văn nô. Đọc xong tất cả đều bốc
hơi, chẳng để lại dư vị gì. Có chăng là một mùi ô uế bốc lên từ luận điệu của kẻ
cướp nước với chủ nghĩa bá quyền và kẻ bán nước với luận điệu ru ngủ dân chúng.
Và có chăng là hiệu ứng ngược gây phẫn nộ trong cộng đồng người Việt yêu nước.
Tôi không tin Quỳnh Nga có tư tưởng ấy mà chẳng qua bị nhồi sọ quá nặng. Nếu
truyện này được đăng trên Hoàn Cầu hay Phượng Hoàng của Trung Hoa thì có lẽ
thích hợp hơn là trang Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam.
Lịch sử và văn chương đến lúc chấp
nhận trò chơi tương tác diễn ngôn. Đã qua rồi cái thời văn chương dựa dẫm vào lịch
sử, xem lịch sử là chân thực, mẫu mực. Nhưng trong trò chơi tương tác này, Trần
Quỳnh Nga đã thất bại thảm hại vì những sáng tạo trong Bắt đầu và kết
thúc không có gì hơn ngoài sự nô dịch về tư tưởng và lối viết. Đó là sáng
tạo chết và trang Văn nghệ cũng chết theo nếu tác giả và tòa soạn không chịu
khai phóng tinh thần mà chỉ nhăm nhăm tìm nguồn tài trợ để giải quyết khủng hoảng./.
Tháng 1 năm 2018
CHU LỘNG LONG
—————--------------------------------------------------------------------------------------------------------
Toàn văn truyện ngắn Bắt đầu
và kết thúc:
BẮT ĐẦU VÀ KẾT THÚC
Truyện ngắn của Trần Quỳnh Nga
Đã đăng trên Báo Văn Nghệ số 50 (16-12-2017, các trang 19-20-21)
Đã đăng trên Báo Văn Nghệ số 50 (16-12-2017, các trang 19-20-21)
Nàng đã chọn cho mình một cách sống.
Bởi nàng chỉ có một cuộc đời.
Bởi nàng chỉ có một cuộc đời.
*
1.
Bấy giờ, vào khoảng đầu năm Ất Dậu (1285),
quân Nguyên đã đánh tới Gia Lâm vây hãm Thăng Long.
Kinh thành thất thủ nhanh như một hơi rượu.
Quân Trần tan tác. Tàn quân đi thuyền ngược dòng sông Hồng, lên Tam Trĩ rút về Quảng Ninh tản mát dọc các con sông bờ suối rậm rịt um tùm.
Tháng giêng. Tháng lễ hội còn chưa kết thúc. Đâu đó trên các tuyến phố trong kinh thành đèn lồng còn giăng đỏ rực. Những sới vật dở dang, những bãi chọi gà đông đúc, những góc chợ rộn rã cờ lọng giờ tan hoang dưới vó ngựa kẻ thù.
Hoa đào rụng như chém gốc.
Thăng Long kiêu sa lừng lẫy phút chốc buồn như một phế nhân.
*
Thoát Hoan dẫn đại quân Mông Cổ rầm rập tiến vào kinh thành Thăng Long như vào chỗ không người, trong lòng hắn cũng lấy làm đắc ý lắm. Đại Việt vốn dĩ từ trước tới giờ mang tiếng là quân chư hầu nhưng trong lòng không hề chịu khuất phục. Lại thêm việc khước từ cung cấp binh lương cho nhà Nguyên đánh Chiêm Thành như đổ thêm dầu vào lửa làm nên cuộc chiến tranh Đại Việt lần 2. Những tưởng Đại Việt là đấng anh hào, ấy vậy mà mới chỉ vài ba trận đánh nhỏ thôi đã như ong vỡ tổ. Thoát Hoan thừa thắng đã cho quân truy sát đám tướng lĩnh và quân đội nhà Trần. Không lâu nữa sẽ bắt được hai vua cho xứng với câu của tổ phụ: “nhổ cỏ phải nhổ tận gốc cái nòi giống ương ngạnh và không chịu khuất phục của một nước nhược tiểu”. Thoát Hoan cười gằn: “Để rồi xem, vó ngựa Nguyên Mông sẽ khiến cho cỏ nước Nam các người còn sức để vươn lên nữa hay không?”
Đêm đó, Thoát Hoan khao quân ầm ĩ trong kinh thành Thăng Long.
Cũng đêm đó, thuyền nhỏ của hai vua ngược dòng Tam Trĩ. Mùa này nước lớn, dòng sông bị kẹp giữa hai bên vách núi dựng đứng, cao vút khiến dòng sông giống như một khe nước vừa sâu, vừa hẹp, với địa hình vô cùng hiểm trở. Từ trên đỉnh núi nhìn xuống chỉ thấy mây trắng bồng bềnh, những ghềnh đá lởm chởm, những khúc cua nghiêng ngả rợn ngợp.
Thượng Hoàng Trần Thánh Tông ngồi trầm ngâm đầu mũi thuyền lặng lẽ buồn. Chẳng lẽ cứ ở mãi trong chốn tận cùng hiu hắt này để trốn tránh vây bắt trong khi thế nước đang như ngàn cân treo sợi tóc.
– Hoàng thượng nắm được tình hình thế nào từ phía quân Mông Thát?- Thượng hoàng quay lại hỏi
– Bẩm phụ hoàng, Thoát Hoan là một người trẻ tuổi và rất dũng võ. Dưới trướng lại có những tướng tài nên trong cuộc chiến lần này, ta đã vì chủ quan mà thua thế quân địch. Giờ hắn đang cho mở yến tiệc khao quân ngay trong kinh thành Thăng Long.
– Hoàng thượng có nhận được tin gì từ phía Nghệ An lên không? Phải mau chóng tập hợp quân đội để bàn kế sách phản công chứ không cứ mãi ở lâu trong lau lách um tùm này được. Thế này sẽ làm nhụt chí nghĩa quân “sát thát”.
– Nhưng quân của Thoát Hoan bây giờ đang mạnh, sợ quân ta khó lòng cầm cự nổi chứ chưa tính đến chuyện phản công nhanh. Đỗ Khắc Chung đã đi sứ để làm chậm tốc độ tiến quân của quân Nguyên, nhưng không có kết quả. Trong khi lúc này tướng Trần Bình Trọng đã hi sinh, Trần Kiện, Trần Lộng và cả hoàng thúc Trần ích Tắc cũng mang gia quyến chạy sang trại giặc. Ta cần phải có thời gian để củng cố lực lượng, Thượng hoàng có kế sách gì với Thoát Hoan không để ta tạm cầu hòa?
Thượng Hoàng không nói, ngồi lặng nhìn hai bên bờ sông bạt ngàn lau lách thở dài nghĩ về Hoàng đệ của mình giờ đang bị lên án như một vết nhơ làm tổn thương cả hoàng tộc mà lấy làm đau lòng. Xét về tình thủ túc, mất một người em làm sao người không đau lòng được. Xét về tình quân vương người lại càng nuối tiếc nhiều bởi Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc là một vị tướng toàn tài mà không ai có thể sánh bằng được.
– Phụ hoàng- hoàng thượng Trần Nhân Tông ngập ngừng- nhi thần có ý này, nhân việc Hoàng thúc Trần Ích Tắc đang là điều nghi kị của quân Nguyên Mông. Chi bằng ta xử tội thúc ấy vắng mặt bằng cách…- hoàng thượng ghé vào tai Thượng hoàng thì thầm- chỉ có cách đó mới làm quân Mông Thát kia không khỏi nghi kị.
Chỉ mới nghe thôi mà Thượng hoàng đã lặng hết cả người .
*
2.
Trong thung sâu hun hút này con
thuyền của An Tư chỉ là một chấm đen nhỏ xíu. Những thuyền khác của hậu cung
cũng nằm ở đấy, neo lại bên những bụi cây trong thung trật tự và nhường nhịn.
Hình như chỉ đến nước này hậu cung mới thôi ồn ĩ và ganh tỵ lẫn nhau. Thuyền
nào thuyền nấy yên ắng lạ thường. Nơi đây khuất gió. Thung trong như một tấm
gương xanh.
An Tư nhìn qua rèm cửa. Trời đã dần về chiều. Trên vách đá cheo leo chỉ thấy khói sóng và mây trời ảm đạm.
– Không biết bây giờ cây đào trước phòng ta có còn nữa không nhũ mẫu?- An Tư phá tan sự tĩnh lặng bằng một câu hỏi chợt thốt ra như vậy
– Cây đào! chắc Hoàng cô lại nhớ Hoàng thúc chứ gì- một công chúa nhỏ cao giọng nghi hoặc- hoàng thúc giờ là một kẻ phản đồ. Nếu hoàng cô còn nghĩ đến hoàng thúc thì sớm muộn gì cũng bị liên đới.
– Chắc đã nở rồi thưa công chúa – nhũ mẫu trả lời khe khẽ rồi nhanh chóng phá tan sự nghi hoặc của mọi người đang nhìn công chúa nhỏ – công chúa lại đang nghĩ đến chuyện gom hoa làm phấn nụ đấy à . Hoa đó mà làm phấn nụ thì màu sắc sẽ tươi lắm đó!
– Ước gì …
Công chúa bỏ dở câu nói nửa chừng nhìn ra khoảng không trước mắt. Thung sâu lúc trời chuyển tối đen thẫm lại đáng sợ. Ánh sáng từ trên cao yếu ớt loang ra vẽ nên những hình thù kì dị khó hiểu.
Lòng An Tư như có lửa đốt. Nàng đang lo lắng cho hoàng huynh vô cùng. Ai cũng nhìn công chúa với vẻ ái ngại bởi trong cung này ai cũng biết đến mối thân tình đặc biệt của hoàng thân Trần Ích Tắc với tiểu muội của mình. Chỉ ngặt điều họ không muốn bàn ra nơi đây một chuyện mà họ xem là một mối nguy hại.
Ngoài kia yên ắng như tờ. Ánh trăng đầu tháng cong vênh tỏa ra thứ khí trời bàng bạc nhuốm trắng cả một khúc sông loang lổ.
*
3.
So với các con của Trần Thái
Tông, An Tư là nàng công chúa phải chịu thiệt thòi. Mẹ nàng vốn là một phi tần
của Thượng hoàng nhưng lại không được sống trong cung mà ở trong một nông trại
phía đông của phủ Long Hưng. Nàng sống với mẫu thân cho đến khi thân mẫu của
nàng lâm bệnh rồi mất. Năm Thượng hoàng mất, mẹ nàng cũng mất. Năm đó An Tư chỉ
vừa mới năm tuổi. Nàng được đưa vào cung.
Nàng không bao giờ có thể quên được cảm giác nhỏ nhoi của mình khi đứng trước những người anh em mà nàng chưa hề biết. Cả hoàng tộc đang nhìn vào đứa trẻ đứng run run trước ngai vàng với cặp mắt vừa xa lạ vừa chần chừ. Đứa trẻ cúi mặt xuống đất muốn khóc mà không thể khóc được cho đến khi có một bàn tay chạm vào bờ vai và giật mình. Trước mặt công chúa là một người thanh niên đang mỉm cười vô cùng hòa ái: “hoàng muội, đừng sợ! ta là anh của muội, tên ta là Trần Ích Tắc” là ngay lập tức, bao nhiêu niềm tin yêu vào phép màu cứu rỗi và che chở đã nằm lại ở khoảnh khắc đó vĩnh viễn. Công chúa nắm chặt lấy tay hoàng huynh.
*
An Tư nhớ lắm. Nàng nhớ rất rõ
khuôn mặt hiền lành của Trần Ích Tắc huynh mỗi khi bế thốc nàng lên cổ chạy
vòng vòng quanh phủ như chơi với con gái. Nàng cũng lại nhớ hình ảnh người đàn
ông lực lưỡng trong bộ áo giáp, vai mang cung tên mới từ chuyến đi săn về vội
vã ào vào phủ trên tay ôm một bầu cây sai người trồng ngay trước cửa sổ phòng của
nàng mà dặn dò “đây là một gốc đào quý huynh kiếm được khi phường săn ngược cổ
trấn Kinh Bắc. Cây đào tượng trưng cho sự ấm cúng, gieo vào lòng mỗi người niềm
vui, niềm tin yêu hi vọng. Ta muốn muội phải tập cách tin vào chính bản thân
mình. Và nữa, muội phải nhớ là lá ngọc cành vàng nên muội tuyệt đối phải tập
cho mình cái cốt cách mỹ nhân giống như hoa đào vậy”
*
Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc- Đệ tam hoàng tử của tông thất nhà Trần thông minh hơn người, làu thông kinh sử, văn chương hơn người lại am tường võ nghệ trong thiên hạ ít người có thể sánh nổi. Người đã từng mở học đường ở bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn phương quy về một mối. Người đã nhân từ đưa tay mình ra nắm lấy tay An Tư khi nàng trở nên lạc lõng trong chính gia tộc của mình…Con người toàn tài cả về phẩm chất lẫn tư cách đang được kính trọng đó trong một đêm binh biến đã trở thành tội đồ, trở thành vết nhơ cho cả hoàng tộc.
*
Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc- Đệ tam hoàng tử của tông thất nhà Trần thông minh hơn người, làu thông kinh sử, văn chương hơn người lại am tường võ nghệ trong thiên hạ ít người có thể sánh nổi. Người đã từng mở học đường ở bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn phương quy về một mối. Người đã nhân từ đưa tay mình ra nắm lấy tay An Tư khi nàng trở nên lạc lõng trong chính gia tộc của mình…Con người toàn tài cả về phẩm chất lẫn tư cách đang được kính trọng đó trong một đêm binh biến đã trở thành tội đồ, trở thành vết nhơ cho cả hoàng tộc.
Điều đó làm An Tư sốc.
Cuộc đời nàng so với nỗi đau mất mẹ thì nỗi đau này ghê gớm hơn nhiều. Bởi với một đứa trẻ 5 tuổi như An Tư hoàng huynh chính là cha, là mẹ, là người thân duy nhất. Người đã vượt qua tất cả những rào cản, những hạn chế của xã hội mà dạy cho nàng tất cả kinh sử, lẫn võ thuật. Người đã dành tâm huyết của mình vì một lòng trung quân ái quốc, đã dạy cho nàng phải biết tu dưỡng phẩm chất và đức hạnh của người Hoàng tộc “muội là công chúa thì phẩm chất của muội cũng phải là một công chúa, phải biết đối nhân xử thế, biết thương dân như thế muội mới được nhân dân tôn trọng và nghe theo được. Học kiếm phổ cũng thế, hiểu được tuyệt kĩ của nó tự khắc con người ta sẽ đạt được đến đoạn tịnh độ. Muội hãy cố gắng học được Bạch Vân kì kiếm để phòng thân khi không còn ta bên cạnh để lo cho muội…”
Lời dặn giống như lời trối.
Người đã bỏ nàng mà đi.
Nàng đâu biết rằng, dưới màn sương dày đặc kia, bóng một con thuyền nhỏ vừa vút qua để lại một mùi thơm khiến nàng nao lòng: mùi của kinh thành, mùi của những viên kẹo hồ lô nàng được hoàng huynh Trần Ích Tắc mua cho trong những lần cùng huynh ra phố. Nàng giật mình nhìn theo vào màn sương mờ đục lặng tờ.
Tất cả chỉ là ảo giác!
Nàng thất thần.
Giọt nước mắt rơi dài trên gò má của nàng thiếu nữ vừa chạm tuổi 16.
*
4.
Ngay sau khi vào kinh thành,
Thoát Hoan đã ra lệnh cất quân lần theo dấu vết quân Trần hốt gọn mẻ lưới cuối
cùng để cùng đoàn quân nam tiến. Vậy mà một tuần trôi qua vẫn chưa bắt được hai
vua. Hắn nhìn thời gian trôi nhanh trong lòng đã thấy bồn chồn liền cho quân rời
kinh thành ra ở lán trại phía tả ngạn sông Hồng chờ tin tức.
– Ta sẽ ra lán trại ở tả ngạn sông Hồng. Các người cứ ở lại đây chiếm giữ kinh thành. Hễ có biến phải san bằng kinh thành trong nháy mắt.
Thoát Hoan nói rồi nhảy lên ngựa thong dong đi ra cổng. Con ngựa hãn huyết thần thánh với bộ lông đen bóng nổi bật trên nền đá xám lạnh của sân rồng. Trên đầu, hoa đào ken kín trông xa như những đám mây khiến Thoát hoan không thể lạnh lùng qua mau được. Trước cảnh hoa đào đẹp đến lặng lẽ như thế, đột nhiên thôi, trong lòng hắn thoáng chút bồn chồn nuối tiếc “giá Đại Việt cứ khuất phục đi, khuất phục làm chư hầu như bao đời nay vẫn thế thì có phải những chốn thiên thai này sẽ còn lại mãi mãi?”
Sinh ra từ thảo nguyên, từ bé đến giờ chỉ sống trên lưng ngựa với cung kiếm và những trận chinh phạt trải dài từ nam chí bắc Thoát Hoan hiểu được rằng, dòng dõi Đại hãn không bao giờ được yếu đuổi hay để chuyện riêng tư làm ảnh hưởng đến gia tộc hùng mạnh của mình. Đó là nguyên tắc bất biến mà bất kì Khả Hãn nào cũng phải nắm vững.
Vậy mà Thoát Hoan đã gìm cương xuống ngựa, thảnh thơi dạo trong vườn thượng uyển. Vườn ngự đẹp quá, những cành hoa sà xuống gần mặt đất non tơ cỏ xanh làm sáng cả một góc vườn. Nó gợi lên trong lòng Thoát Hoan về một kinh thành tinh tế và hoa lệ nhưng cũng rất đỗi gần gũi thân thuộc. Ở Trung nguyên đại lục của hắn thiếu gì những cảnh sắc đẹp đẽ. Nhưng đẹp đến bi uất như chốn kinh thành Thăng Long tiêu điều này thì đến bây giờ Thoát Hoan mới nhận ra được. Phải chăng ngay cả lúc điêu tàn nhất, nước Nam vẫn là một điều kì dị và bí hiểm đến mê hoặc?
Đang nghĩ vẩn vơ bỗng Thoát Hoan chợt dừng lại trước một cây đào lạ. Hoa màu bích đào, hoa tám cánh nở to hơn bình thường trên những cành đào mốc thếch sần sùi những vẩy địa y bám chặt. Nhưng dáng cây lại tinh tế lạ lùng. Trông như dáng một con hạc đang kiễng chân, vỗ cánh như chuyển bị bay lên vậy:
– Đây là loại đào gì?
– Dạ bẩm, đây là hoa đào rừng ạ. Một loại bích đào hiếm có được tìm thấy trong thung sâu. Chính Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc đã tìm ra và đem về tặng cho Hoàng muội của người đó ạ.
– Hoàng muội của Trần Ích Tắc?
– Là công chúa lưu lạc trong nhân gian vừa được sắc phong.
– Sao trong đám thị tì không có nàng ấy?
– An Tư công chúa đã cùng hậu cung chạy trốn rồi ạ
– An Tư? Mỹ nữ đẹp nhất trời Nam? – Thoát Hoan nói thế rồi cười lớn- Hảo!
*
Trong đại điện lúc đó, Chiêu văn vương vừa lỡ tay làm đổ chén trà cung đình. Chén trà rơi xuống đất vỡ tan. Nước bắn tung tóe!
*
5.
An Tư là người thứ ba sau hai
vua được nghe tin từ phía trại giặc. Nó như một tiếng sét làm kinh động đến
trái tim non nớt của nàng. An Tư nhắm chặt mắt. Nỗi sợ hãi duềnh lên trong lòng
thiếu nữ. Nàng biết làm gì đây khi mang danh phận công chúa Trần triều lại bị
chính tướng giặc yêu cầu cống nạp cho lần bang giao sắp tới. Bị đưa đến chốn
hang hùm, nàng sẽ ra sao, sẽ bị đối xử như thế nào dưới thân phận của một nô lệ
khi nàng mới chỉ vừa tròn 16 tuổi?
An Tư đã chịu đựng nỗi băn khoăn đó một cách cô độc. Cả triều đình đang nâng niu nàng như một thánh nhân mà không hề nghĩ đến nỗi sợ hãi sâu thẳm của một người thiếu nữ. Anh của nàng, Thượng Hoàng Trần Thánh Tông, người vừa trao lại quyền năng cho nàng đã cùng lúc tước đi sự tự do của nàng đang ngồi im như phỗng làm nàng sợ hãi. Giá như Thượng Hoàng nói với nàng vài lời chắc An Tư cũng sẽ can đảm như những bậc trung thần khác sẵn sàng hi sinh thân mình cho đất nước nhưng người lại im lặng. Im lặng là đau lòng hay lạnh lùng thì nàng không thể nào hiểu nổi.
An Tư đi lại phía cửa sổ nhìn dòng sông mùa xuân xanh rờn một màu xanh nguyên thủy yên bình chảy. Sự tĩnh lặng làm nàng như rơi vào trạng thái ảo giác. Trong cơn hỗn độn đó nàng thấy mình đang ngồi khóc nơi bậc thềm. Dưới tán hoa đào bung như mây hồng và tiếng vó ngựa khấp khấp đổ dồn rộn rã:
– Hoàng huynh! Hoàng huynh.
– Sao hoàng muội lại khóc chứ
– Muội sợ huynh bỏ muội mà đi.
– Đời ta sinh ra là để phụng sự nước nhà. Nếu không bỏ xác ngoài sa trường thì ta sẽ không bao giờ buông tay muội. Muội là đứa em mà ta thương yêu nhất.
– Nhưng…
– Muội nên nhớ rằng bây giờ muội là hoàng cô của Hoàng thượng rồi. Dòng máu hoàng tộc không chỉ nuôi sống cơ thể chúng ta mà nó còn là huyết mạch nuôi dưỡng tinh thần quật cường, đức hi sinh, lòng kiêu hãnh của cả một triều đại.
– Thế tại sao huynh có thể…
– Ta đã chọn lựa cách sống của riêng mình và ta không hổ thẹn với nó. Cũng như muội giờ đây, muội phải lựa chọn cuộc sống cho riêng mình chứ không chỉ cứ ngồi chờ ta và khóc như một đứa trẻ nữa.
Hoàng huynh nói rồi mất hút trong một trận cuồng phong làm mặt nước nổi sóng duềnh khiến An Tư tỉnh giấc.
*
Chiều! Chiều rồi! bóng nắng khuất dần sau núi chỉ còn lại vài vệt yếu ớt từ đám mây trên đỉnh trời hắt xuống. Dòng Tam Trĩ dài dằng dặc chảy từ thượng nguồn núi Am Váp xuôi về đến hạ lưu giống như một con rắn lục khổng lồ vắt mình qua những dải rừng nguyên sinh thâm trầm bí hiểm trườn ra phía biển. An Tư nhìn dòng sông phía cuối hạ lưu thao thiết chảy. Nàng nhớ đến giấc mơ của mình thoáng chút ngỡ ngàng: chẳng lẽ đó là điều mà hoàng huynh mộng báo ?
*
Tháng 2 năm Thiệu Bảo thứ bảy – năm 1285. Mùa xuân năm đó, cây cỏ đìu hiu. Hơi thở đóng băng. Cả kinh thành được ví như hình rồng uốn lượn giờ cũng hiền lành náu mình trong sương giăng kín lối. Đêm đó, người ta trang điểm cho công chúa thật đẹp. Nàng mặc bộ áo lụa đỏ, đi hài đỏ, ngồi trên một cây kiệu đỏ có 8 người khiêng đi về phía trại giặc. Không ai biết được trong lòng công chúa nghĩ gì. Chỉ thấy khuôn mặt nàng khi tái nhợt, khi bừng đỏ. Đôi mắt nàng khi long lanh ngấn lệ, khi lạnh băng như nước hồ thu. Nàng đang đi về một nơi mà nàng không hề ngờ tới.
*
6.
– Múa đi! Múa để ta xem sức bền của người Giao Chỉ các ngươi chịu đựng đến đâu trước sức mạnh của Trung Nguyên đại lục.
Từ sau bức mành trúc, tiếng người vừa ra lệnh cho nàng múa không ai khác chính là tướng quân Mông Cổ Trấn nam vương Thoát Hoan. Người mang mặt nạ sắt đang ngồi bên bàn rượu trông uy nghi, đạo mạo, giọng nói trầm hùng.
– Đã một tuần trăng qua, thần thiếp đã múa hết các điệu múa của Đại Việt rồi, bây giờ, thần thiếp muốn múa điệu múa của người Mông Cổ.-
An Tư cung kính cúi đầu trước Trấn
Nam Vương rồi nhỏ nhẹ tiếp lời
– Đêm nay, thiếp xin hầu Trấn
Nam Vương điệu phi thiên vũ.
– Phi thiên vũ?
An Tư không đáp lại lời Trấn Nam Vương. Trong khoảnh khắc tĩnh lặng đó, tiếng đàn mã cầm đầu đột nhiên vút lên não nề. Tiếng đàn da diết mà lại rất phóng khoáng, mênh mang như tâm hồn dân du mục vùng thảo nguyên bát ngát và cánh chim thiên vũ vút lên trời xanh như một mũi tên đang kể chuyện về cuộc đời tự do của mình khiến Thái tử trung nguyên ngỡ ngàng không thể rời mắt. Từ bé tới giờ Thoát Hoan chỉ ở trên thảo nguyên rộng lớn. Cái khoáng đạt của lòng người cũng như lòng thảo nguyên bao la và có phần lãng tử. Chàng chắc cũng đã được biết nhiều đến các mỹ nhân, nhưng đẹp và tài hoa như An Tư quả là chàng chưa thấy bao giờ. An Tư đã khéo léo lột tả được vẻ đẹp của sức mạnh và sự nhu nhị lại với nhau. Bài múa là sự phối hợp giữa nội lực và sự uyển chuyển cho nên nét nhu càng nổi bật hơn. Người ta thường nói, nhu năng khắc cương là cái thần của bài múa chính là như vậy.
Từ khi thấy An Tư từ trên kiệu hoa bước xuống, Thoát Hoan đã thấy sững sờ trước đệ nhất mỹ nữ nước Nam rồi nhưng cái đẹp khiến hắn đắm say lại chính là từ điệu múa phi thiên vũ nhuần nhuyễn đến nghi hoặc này. Rốt cuộc nàng là ai? Là công chúa lưu lạc trong dân gian không danh phận hay một tiên nữ giáng trần để thử lòng kiêu hùng của tướng quân Khả Hãn? Câu hỏi chưa kịp thốt ra đã bị quên lãng. Tâm thế Thoát Hoan đã bị cuốn vào trong điệu vũ tiếp đất thanh thoát của nàng. Thế hạc tấn khiến xiêm áo nàng tung bay như một bông hoa đang nở.
– Trời!
Tiếng hét ngỡ ngàng không kìm được của Thoát Hoan làm An Tư bối rối. Nàng sững sờ chới với một lúc rồi ngã xoài ra đất. Âm nhạc tắt lịm. Không gian quánh lại nghẹt thở. Cả lán trại ồ lên phút chốc lại yên lặng đến nghẹt thở. Quần thần lặng im bởi ai cũng biết rằng mỗi khi Trấn nam vương cắt lời ai thì người đó không có quyền được sống nữa. Giờ thì đã hết! tiếng hét của Thoát Hoan là mũi tên cắm sâu vào lồng ngực. Con chim đã trúng tên rơi tự do xuống đất. Nàng nhắm mắt. Trời xanh vừa khép lại trên đầu nàng. Dẫu nàng biết rằng từ khi đến đây ngày nào với nàng cũng là ngày cuối nhưng nàng vẫn thấy sao thời gian lúc này đây dài lê thê đến thế. Nàng nằm im chờ đợi sự phán quyết cuối cùng không hề sợ hãi hay nuối tiếc bởi khi nhìn con chim bồ câu đưa tin bay lên trên bầu trời xanh thẫm sáng nay, nàng biết sứ mệnh của nàng đã hoàn toàn chấm dứt. Vì thế, nàng chọn điệu Phi thiên vũ để múa bằng tất cả những đam mê tự do cuối cùng của riêng mình.
– Hoàng huynh! …vĩnh biệt….
*
7. Vậy là sau một tháng giãn binh ở kinh thành Thăng Long, quân đội Đại Việt đã phủ đầu đại quân Mông Nguyên bằng những cuộc phản công thần tốc.
Vó ngựa rền rĩ.
Tiếng chiêng trống thúc dục liên hồi.
Bốn bề là biển lửa !
Tiếng binh khí loảng xoảng. Tiếng hò hét điên loạn: Phải bắt sống Thoát Hoan! Phải bắt sống Thoát Hoan.
*
8.
An Tư choàng mở mắt. Đêm tối đen. Ánh sáng từ cây đèn bạch lạp lấp lánh ở góc phòng không đủ sáng để soi rõ khuôn mặt người đàn ông đang ngồi trước mặt nàng. Là Thoát Hoan vừa lay gọi nàng dậy. Đây là lần đầu tiên An Tư được diện kiến khuôn mặt không mang mặt nạ sắt của kẻ khét tiếng hung tợn đất Trung Nguyên. Nàng đã từng tưởng tượng rằng đằng sau dáng ngồi kềnh càng như một con gấu lớn với tấm áo khoác da thú tanh đầy mùi máu phải là một người kì dị chứ không phải là một trang nam tử Hán trong một bộ áo dài màu nâu viền vàng gài khuy chéo được quấn bằng một dây đai nạm ngọc tinh tế làm lộ rõ thân hình đẹp đẽ.
– Nàng tỉnh rồi !
An Tư bừng tỉnh. Nàng chưa kịp hiểu ra sâu xa điều gì khi Thoát Hoan nói thế. Thoát Hoan không thể nào nói thế. Một đất nước luôn mang trong mình khát vọng bành trướng lãnh thổ bằng cách thôn tính các nước nhược tiểu chỉ có thể sản sinh ra những con người gồ ghề, máu lạnh sẵn sàng hủy hoại tất cả những gì ngáng trở trên con đường thành công của chúng. Ấy vậy mà trong hoàn cảnh tính mạng đang bị dồn đến đường cùng hắn vẫn đang ngồi đây và nói những lời gần như vô nghĩa khiến nàng không thể nào hiểu nổi. Nàng hít một hơi sâu trong lồng ngực để biết rằng mình không bị ảo giác. Mình không mơ. Nàng biết mình đã lọt vào đường cùng:
– Giết ta đi.
– Ta đã từng nghĩ rằng ta sẽ bóp chết nàng như bóp chết một con nhạn nhưng ta không thể. Vì nàng đã chạm đến trái tim ta chứ không phải mưu lược của anh nàng khiến ta bị lừa gạt. Chẳng lẽ, nàng không muốn gặp lại hoàng huynh của người sao?
– Hoàng huynh của ta?
– Chiêu văn vương Trần Ích Tắc, một kẻ ngông cuồng, một kẻ vì nước mà hi sinh cả tiền tài, danh vọng và thân phận của mình để làm một kẻ nội gián đáng chết.
– …
– Nhưng ta sẽ không cho hắn được chết. Cho hắn chết chẳng khác nào để cho hắn trở thành anh hùng trong lòng dân các ngươi ư? Ta sẽ cho hắn sống, sẽ cung phụng hắn, bao bọc hắn trong nhung lụa. Hắn đã muốn hàng ta sẽ cho hắn đầu hàng… và lúc đó không chỉ hai vua mà cả Trần triều đều coi hắn là một kẻ phản quốc. Hắn sẽ sống không bằng chết.
– Ngươi…
– Ta đã có thể thoát khỏi đây một cách nhanh chóng nhưng ta vẫn ở đây bởi vì ta yêu nàng. Vừa yêu vừa căm hận. Nàng cũng giống như hoàng huynh của nàng thôi, cũng sẽ chết trong tay ta nếu ta muốn thế.
– …
– Bây giờ chúng ta phải cùng nhau lựa chọn thôi, hoặc là bắt đầu hoặc là kết thúc – Thoát Hoan đứng dậy nhìn ra phía cửa sổ.
– Là sao?
– Là ta đã vì nàng mà trở thành tội đồ của dân tộc ta. Nàng cũng đã vì ta mà mang tội che giấu kẻ thù với triều đình. Nếu cả hai việc đều bị vỡ lở thì không chỉ ta, cả nàng cũng bị xử tội. Chi bằng chúng ta hãy chọn mở đầu để kết thúc mọi chuyện. Chúng ta sẽ sống cho cuộc đời của chúng ta. Sẽ biến mất khỏi cuộc chiến này một cách vĩnh viễn.
An Tư mở choàng mắt tỉnh hẳn. Trân trân nhìn vào con người đang ngồi trước mặt mình một cách lạnh lùng. Ngoài song, quân triều đình đã áp sát chặn mọi ngả đường hắn sẽ không còn lối thoát. Đồ ngạo mạn ấy cuối cùng cũng sẽ bị giết dưới tay quân đội triều đình thôi. Không ai khác chính nàng sẽ tự tay giết chết hắn. Nàng nghĩ thế nhưng rồi khi chạm phải ánh mắt của Thoát Hoan làm nàng chùng lòng. Ánh nhìn đó khiến nàng nhớ đến ánh mắt của hoàng huynh khi đưa tay nắm lấy tay nàng hồi thơ bé.
Lại có tiếng hò hét rượt đuổi ngoài cổng thành. Quân triều đình đã vây kín mọi lối thoát. Cánh cửa phòng nàng bật mở. Trong tích tắc, An Tư như bừng tỉnh. Nàng vùng dậy, kéo tấm chăn bằng lụa điều rồi đẩy Thoát Hoan vào đó.
Cho đến canh ba thì tiếng hò hét biến mất. Thinh không phút chốc trở lại yên ắng lạ thường. Gió lạnh ngoài sông thổi về gấp gấp. Trong đêm tối tĩnh mịch có hai người vội vã rời khỏi kinh thành. Ngựa phi nhanh như gió. Sau lưng họ, hoa đào rụng trắng như tuyết dưới ánh trăng đẫm sương ướt át. Mùi thơm còn đọng lại trên nhụy đài chan chát ngọt ngào.
TRẦN QUỲNH NGA
Nhận xét
Đăng nhận xét