Bài toán cáp biển Việt Nam:
Lệ thuộc Mỹ hay Trung Quốc đều
gặp trái đắng
Việt Nam được cho là đang chịu sức ép từ cả hai phía Mỹ và
Trung Quốc trong việc trao gói thầu lắp đặt 10 đường cáp ngầm trọng yếu dưới biển.
Suốt gần một năm qua, Mỹ đã vận động hành lang và tổ chức hàng loạt cuộc
họp với quan chức Việt Nam để thuyết phục loại HMN Technologies - một công ty của
Trung Quốc mà Hà Nội được cho là đang để mắt - và bất cứ công ty nào của Trung
Quốc.
Phía Mỹ đưa ra các thông tin tình báo cho rằng có nguy cơ phá hoại và
gián điệp từ phía Trung Quốc.
Năm đường cáp biển cũ của Việt Nam đều gặp sự cố mất kết nối và các lỗi kỹ
thuật gây tốn kém - đôi khi xảy ra đồng thời - vào giữa cuối năm 2022 và đầu
năm 2023.
Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam kết luận rằng không có bằng chứng
nào của phá hoại và rằng nếu có phá hoại thì hiện chưa rõ ai là người thực hiện.
Tuy nhiên, một số nhà quan sát mà BBC Tiếng Việt phỏng vấn khẳng định rằng
nguy cơ phá hoại và tình báo là có thật. Và lựa chọn bên nào cũng đẩy Việt Nam
vào thế khó.
Mối nguy từ Trung Quốc?
Có ba rủi ro chính nếu Việt Nam chọn công ty HMN Technologies hay bất cứ
công ty nào của Trung Quốc để lắp cáp biển, theo Giáo sư Carl Thayer từ Đại học
New South Wales (Úc).
Thứ nhất, Trung Quốc sẽ có khả năng theo dõi mọi hoạt động truyền dữ liệu
qua hệ thống này và khai thác chúng cho chương trình phân tích big data của nước
này, gây ra mối nguy tiềm tàng đối với quốc phòng.
Thứ hai, Trung Quốc sẽ có thể làm gián đoạn lưu lượng thông tin trên các
tuyến cáp ngầm của Việt Nam vào thời điểm khủng hoảng hoặc xung đột.
Thứ ba, Việt Nam có thể trở nên phụ thuộc vào công nghệ thông tin và truyền
thông của Trung Quốc do xu hướng hiện nay mà Hoa Kỳ khởi xướng, đó là tách rời
công nghệ và thiết bị do Hoa Kỳ thiết kế và sản xuất khỏi các hệ thống của
Trung Quốc.
Trung Quốc đã có hẳn luật quy định các cá nhân, tổ chức phải hợp tác về mặt
cung cấp thông tin tình báo nếu được yêu cầu.
Điều 7 và 14 Luật Tình báo Quốc gia của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
(2017) quy định: "Tất cả các tổ chức và công dân phải hỗ trợ, giúp đỡ và hợp
tác với các nỗ lực tình báo quốc gia" và "Các tổ chức làm công tác
tình báo quốc gia có thể yêu cầu các cơ quan, tổ chức và công dân có liên quan
cung cấp sự hỗ trợ, giúp đỡ và hợp tác cần thiết."
Trung Quốc trước đây đã có lịch sử thực hiện một số hoạt động không được
"fair play" (chơi đẹp) với Việt Nam, theo ông Hoàng Việt, giảng viên
luật quốc tế, Đại học Luật TP Hồ Chí Minh.
"Bắc Kinh nhiều lần giúp Việt Nam các dự án đường sắt, đường bộ và
khi mối quan hệ hai bên xấu đi, như vào năm 1979, tất cả những công trình này đều
bị Trung Quốc phá hoại."
"Hiện hai nước đang có căng thẳng trên Biển Đông, nơi có nhiều cáp
ngầm đi qua. Nếu xảy ra xung đột thì Trung Quốc có thể trả đũa bằng cách cắt
cáp ngầm của Việt Nam," ông Hoàng Việt nói.
Do đó, chuyên gia này cho rằng nếu chọn Trung Quốc, Việt Nam cần phải
tính tới việc đảm bảo an toàn cho các đường cáp trong trường hợp mối quan hệ giữa
hai nước xấu đi.
Trung Quốc cũng có thể có thể tác động đến cấu trúc và đường đi của các
tuyến cáp, theo nghiên cứu sinh tiến sĩ Jeanne-Mây Desurmont từ University
College London (UCL, Anh).
Trong bài nghiên cứu đăng trên website của Viện Tình báo và An ninh
Bloomsbury, bà Jeanne-Mây Desurmont viết: "Trong khi Trung Quốc ngăn cản
các công ty nước ngoài lắp đặt cáp ngầm ở các vùng lãnh thổ [trên Biển Đông] mà
họ tuyên bố chủ quyền, nước này lại khuyến khích các công ty thuộc sở hữu nhà
nước lắp cáp ở các khu vực nói trên."
Thông qua những công ty như vậy, trong đó có HMN Technologies, Trung Quốc
có thể kiểm soát và tạo ra những điểm tắc nghẽn dữ liệu quan trọng trong vùng đặc
quyền kinh tế (EEZ) của nước này.
"Điều này càng làm phức tạp các cuộc đàm phán liên quan đến việc cấp
phép cần thiết để hoạt động trong vùng biển Trung Quốc."
"Ngoài ra, việc Trung Quốc độc quyền sở hữu cáp ngầm ở Biển Đông khiến
nước này có thêm cơ hội sử dụng các tuyến cáp này như công cụ trong chính sách
đối ngoại cứng rắn."
"Ví dụ, Trung Quốc có thể gây sức ép bằng cách kiểm soát dòng chảy dữ
liệu hoặc cản trở hoạt động sửa chữa quan trọng, qua đó buộc các quốc gia ở Biển
Đông từ bỏ tuyên bố chủ quyền của họ," theo bà Jeanne-Mây Desurmont.Chọn Mỹ cũng không an toàn?
Hiện nay, Mỹ và các quốc gia đồng minh đang chiếm ưu thế trong các thị
trường toàn cầu về lắp đặt cáp biển, cũng như hệ thống cáp ngầm dưới biển.
Mỹ hiện có 42 trong số 50 công ty viễn thông và công nghệ hàng đầu, so với
chỉ 8 công ty của Trung Quốc.
Với các nguy cơ về an ninh, quốc phòng và bảo mật dữ liệu như đã nói ở
trên, "Hoa Kỳ sẽ là lựa chọn tốt hơn cho Việt Nam vì các công ty Hoa Kỳ có
kinh nghiệm hơn và sở hữu công nghệ cao hơn so với các đối thủ Trung Quốc,"
theo GS Carl Thayer.
Việc này sẽ giúp đảm bảo an ninh hơn cho Việt Nam, do Hoa Kỳ ít có khả
năng gây gián đoạn việc truyền tải dữ liệu qua các tuyến cáp ngầm dưới biển của
Việt Nam vì lý do chính trị.
Để cân bằng mối quan hệ với hai cường quốc, GS Cal Thayer cũng cho rằng
Việt Nam nên duy trì kết nối với Trung Quốc qua cáp quang trên đất liền và kết
nối với thế giới qua sự hỗ trợ của Hoa Kỳ qua các tuyến cáp ngầm dưới biển.
Trong khi đó, nghiên cứu sinh Jeanne-Mây Desurmont chỉ ra rằng đối tác Mỹ
cũng không hẳn là an toàn.
"Đạo luật Tình báo Nước ngoài của Mỹ không bảo vệ các bên liên quan ở
Đông Nam Á khỏi việc bị giám sát hàng loạt, như đã được tiết lộ qua các vụ rò rỉ
thông tin của Edward Snowden vào năm 2014."
Bà Elina Noor, thành viên cấp cao của Chương trình châu Á tại Quỹ
Carnegie vì Hòa bình Quốc tế, Hoa Kỳ, và ông Hoàng Việt, đều nhắc đến vụ Edward
Snowden khi nói đến nguy cơ tình báo Mỹ.
"Rủi ro phá hoại của bất kỳ bên nào luôn tồn tại, nhưng rủi ro này đặc
biệt cao khi có căng thẳng địa chính trị," bà Noor bình luận với BBC News
Tiếng Việt.
"Và vì vậy, theo tôi, nếu Hoa Kỳ nói rằng có rủi ro phá hoại hoặc
gián điệp, thì tôi nghĩ bất kỳ quốc gia nào, không chỉ Việt Nam, cũng nên khôn
ngoan đảo ngược giả định đó và áp dụng cho các quốc gia khác."
"Giả định này thậm chí áp dụng cho cả Hoa Kỳ hoặc bất kỳ ai là nhà
cung cấp bất kỳ dữ liệu kỹ thuật số nào."
Về nguy cơ chiếm đoạt thông tin thông qua cáp ngầm, bà Noor nhắc đến Chiến
dịch Storm Brew, trong đó các dữ liệu thông tin thượng nguồn và hạ nguồn được Mỹ
thu thập thông qua cáp ngầm từ công ty viễn thông để tạo ra hồ sơ về các quốc
gia đang bị do thám.
'Nạn nhân' của cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung
Mỹ và Trung Quốc hiện đang cạnh tranh gay gắt trong nhiều lĩnh vực, trong
đó có ngành công nghiệp cáp ngầm internet dưới biển.
Theo các chuyên gia, Việt Nam hiện là "nạn nhân" của cuộc cạnh
tranh này.
Nếu xét về kinh tế, thuê Trung Quốc rẻ hơn, nhưng ở một số góc độ, lại ít
an toàn hơn so với thuê công ty Mỹ.
Dù thế, kể cả khi thuê Mỹ, Việt Nam cũng khó có thể bảo vệ thông tin của
mình, bên cạnh đó lại làm phật lòng Trung Quốc.
"Việt Nam rất chần chừ trong việc tham gia Vành đai và Con đường,
nhưng trước sức ép của Trung Quốc cũng phải tham gia và gần đây là ký kết Cộng
đồng chia sẻ tương lai, dù trước đây né tránh."
"Vụ cáp biển này cũng như vậy. Trung Quốc muốn Việt Nam nằm trong tầm
kiểm soát của mình. Việt Nam không mua hàng của Trung Quốc mà lại mua hàng giá
cao hơn của Mỹ thì cũng khó giải thích với người hàng xóm của mình," ông
Hoàng Việt phân tích.
Rủi ro luôn tồn tại và trên diện rộng, theo bà Elina, và như vậy, Việt
Nam cần cân nhắc nhiều yếu tố.
Yếu tố đó có thể là chi phí, là an ninh quốc gia, hay lợi ích của người
dân.
Theo bà Elina, đây là một quyết định rất khó khăn cho bất cứ quốc gia nào
đang bị kéo vào cuộc cạnh tranh địa chính trị giữa Mỹ và Trung Quốc.
"Việt Nam có một lịch sử lâu dài và phức tạp với Trung Quốc."
"Nhưng Việt Nam cũng đã có một giai đoạn phức tạp với Hoa Kỳ, và hãy
xem Việt Nam hiện đang ở đâu với Hoa Kỳ. Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược
toàn diện với Hoa Kỳ."
"Và vì vậy tôi nghĩ rằng việc đứng về phía này hay phía kia đối với
Việt Nam không đơn giản. Đây không chỉ là một dự án cáp ngầm, mà là cáp ngầm được
kết nối với các trạm tiếp đất dễ bị do thám, được kết nối với các trung tâm dữ
liệu, và Việt Nam cũng muốn trở thành trung tâm dữ liệu như vậy. Và tất cả những
yếu tố này đều có tầm quan trọng hoặc mức độ ảnh hưởng khác nhau."
Theo bà Noor, các cáp quang có tuổi thọ từ 20 đến 25 năm, nên khi cân nhắc
có muốn hợp tác với nhà cung cấp Trung Quốc hay Mỹ, Việt Nam cần cân nhắc mối
quan hệ mà mình sẽ có trong vòng, ví dụ, hai, ba thập kỷ tới.
"Việt Nam cần tham vấn với các bên liên quan khác, bao gồm cả các
nhà khai thác tư nhân sẽ là các đối tác trong nước cho dự án cáp ngầm và những
vấn đề tương tự."
"Hà Nội sẽ phải xem xét liệu họ có bị loại khỏi mạng lưới cáp của
các nước hay không, nếu họ chọn Trung Quốc."
"Vì những gì chúng ta đang thấy hiện nay là áp lực của Hoa Kỳ đối với
các quốc gia trong khu vực để buộc họ lựa chọn Hoa Kỳ và các nhà cung cấp đối
tác."
"Và vì vậy, nếu Việt Nam trao hợp đồng cho HMN Technologies thì liệu
trong 20 đến 25 năm tới, không chỉ nguồn cung mà cả các tiêu chuẩn đi kèm với một
nhà cung cấp cáp cụ thể đó có bị phân mảnh hay không."
"Và liệu điều này có dẫn đến sự chia rẽ vĩnh viễn về mặt cơ sở hạ tầng
khi một bên không thể tương tác với bên kia hay không là điều mà Việt Nam sẽ phải
cân nhắc khá nghiêm túc," bà Elina Noor nhận định.
Trong bối cảnh này, ông Hoàng Việt cho rằng Việt Nam nên chọn cả hai nước,
Mỹ và Trung Quốc.
Điều này giúp Việt Nam đa dạng hóa hơn và so sánh được chất lượng đường
truyền nước nào tốt hơn. Ngoài ra cũng giúp Việt Nam không lệ thuộc vào một bên
nào.
"Lệ thuộc vào bên nào cũng gặp trái đắng."
"Việt Nam không có nhiều lựa chọn. Và mỗi một quốc gia, một tập đoàn
đều có những hạn chế."
"Do đó, nên giao một số tuyến cáp trên biển cho Trung Quốc xây dựng
và một số tuyến khác do Mỹ xây dựng."
"Đây không chỉ là một hợp đồng kinh tế đơn thuần mà còn là địa chính
trị. Nó ẩn đằng sau việc kiểm soát thông tin, tạo ra vùng ảnh hưởng trên vùng Ấn
Độ Dương - Thái Bình Dương."
"Việt Nam muốn cân bằng giữa cả hai cường quốc," ông Hoàng Việt
bình luận.
Nhưng giải pháp này liệu có khả thi?
Bà Elina Noor cho rằng "chắc chắn đó là một lựa chọn" và Việt
Nam sẽ có nhiều quyền lực hơn nếu có thể trao một số hợp đồng cho Mỹ và một số
hợp đồng cho Trung Quốc.
Nhưng bà nghi ngờ việc Việt Nam có thể chịu được gánh nặng chi phí nếu
làm vậy.
"Cáp biển rất, rất đắt. Chúng lên tới hàng trăm triệu đô la,"
bà nói.
"Nếu Chính phủ Việt Nam, cùng với các đối tác khu vực tư nhân của
mình, có đủ khả năng chi trả, thì điều này rất tốt."
Nhận xét
Đăng nhận xét