Theo tín ngưỡng dân gian, ma là hồn người chết hiện hình;
quỷ là con vật quái dị, dữ tợn dưới âm phủ, hiện lên quấy phá, làm hại người.
Tuy nhiên, trong tiếng Việt, ma và quỷ còn có nhiều nghĩa khác. Theo Bách khoa thư Baidu, ma (魔) là ký tự lần đầu được nhìn thấy trong Thuyết văn
giải tự của Hứa Thận, ra đời cùng với bản dịch kinh điển Phật giáo vào thời Nam
- Bắc triều. Ma là từ viết tắt của chữ mara (मार) trong Phạn ngữ, còn mara có nghĩa là giết, sát sinh và chướng ngại - một
thuật ngữ xuất hiện trong Đại trí độ luận do Bồ tát Long Thụ soạn, ngài Cưu ma
la thập dịch vào đời Hậu Tần. Trong Phật giáo, ma là sự cản trở việc tu hành (Tây du ký, tập 12), về
sau ma mở rộng nghĩa thành "ác quỷ, quái vật" (Giáng ma của Tống Lục
Du); "người xấu hoặc thế lực xấu xa" (Ngụy thư. Nguyên Dao truyện).
Ma còn dùng để chỉ ma thuật hoặc người bị ám ảnh điều gì đó (Dữ Nguyên Cửu thư
của Bạch Cư Dị) hay là sự mê đắm (Cao tử di thư. Hội ngữ thập bát), sự điên loạn,
phi lý (Cố sự tân biên. Chú kiếm)... Ngày nay, ma giáo có nghĩa là gian xảo, bịp bợm song ngày xưa lại là
"tôn giáo làm say mê lòng người mà hại người". Trong Từ điển tiếng Việt
do Hoàng Phê chủ biên (1988), ma xó là ma thờ ở xó nhà, cái gì cũng biết; ma gà
là con ma nhập vào người sống, gây bệnh tật, tai họa cho người. Những kẻ bần tiện,
đáng khinh bị gọi là ma bùn; mặt mũi khó coi gọi là ma mút; bẩn thỉu, xấu xí là
con ma lem rồi nào là ma cô, ma cà bông, ma lanh, ma mãnh hoặc ma men, ma mị,
ma trơi, ma tà… Đấy là chưa kể những từ cổ như ma pháp (phép ma quái); nhập ma
(sự mê đắm, mất hết lý trí); bệnh ma (loài ma quỷ hại người) hay ma đạo (con đường
gian tà, hại người). Ngoài ra còn những từ đồng âm khác nghĩa với ma như hồ ma,
ma đậu, ma hoàng, lúa ma… Quỷ (鬼) là ký tự xuất hiện lần đầu trên các bản khắc Giáp cốt văn thời nhà
Thương (Từ nguyên, Thiên Tân cổ tịch xuất bản xã, 2013). Ký tự cổ xưa này giống
như con quái vật có thân người và cái đầu to; nghĩa gốc là linh hồn của người
chết trở về hoặc hồn phách đã tách rời của con người (Cửu Ca. Quốc thương của
Khuất Nguyên). Từ quỷ có nhiều nghĩa: là "ác quỷ, bóng ma" (Lễ Ký. Tế nghĩa);
"linh hồn của vạn vật" (Thi Kinh. Tiểu Nhã. Hà nhân tư); "tổ
tiên" (Luận Ngữ. Vi chính); "biệt danh, chủ yếu là trẻ con" (Ngũ
nguyệt Đoan dương của Lý Quý); "thủ đoạn bẩn" (Thiếu niên tâm của
Hoàng Đình Kiên); "sự thông minh, tinh tế" (Tam thiên lý giang sơn của
Dương Sóc); "ám chỉ cái chết, biến thành quỷ" (Dung Trai ngũ bút của
Hồng Mại); "niềm tin mê tín vào quỷ thần" (Dật chu thư. Mệnh huấn). Trong các văn bản cổ, ta có thể bắt gặp những từ quỷ với nghĩa hoàn toàn
khác (cách viết chữ Hán khác), chẳng hạn như quỷ (佹: kỳ quái); quỷ (垝: hư hỏng, đổ nát); quỷ (庪: chôn giấu); quỷ (姽: vẻ đẹp thùy
mị của đàn bà); quỷ (庋: chạn để thức ăn, giá chứa đồ); quỷ (蛫: loài cua 6 chân); quỷ (觤: sừng của
loài thú mọc không đều, dài ngắn hoặc cao thấp)… - Từ điển Hán Nôm,
thivien.net. Từ "quỷ" hiện nay thường dùng để chỉ những thứ tà ác và đáng sợ,
phần lớn đều liên quan đến sự mê tín, ma quỷ và thần thánh.
Nhận xét
Đăng nhận xét