NGUYỄN HUY THIỆP trả lời phỏng vấn năm 53 tuổi
NGUYỄN HUY THIỆP:
" TÔI ĐÓNG VAI CỦA TÔI
CŨNG ĐƯỢC"
Nguyễn Huy Thiệp bảo:” Có câu chuyện của người Nhật về một anh chàng bắn
cung. Anh ta tập mãi, tập mãi, đạt đến trình độ tuyệt đích, bắn phát nào trúng
phát ấy. Anh ta tập nữa. Bịt mắt lại mà bắn vẫn trúng! Rồi dần dần, anh ta bỏ cả
tên đi, chỉ bắn bằng cung không! Chim chóc bay ngang nhà anh ta phải vòng
tránh, không dám bay qua. Anh ta vẫn tiếp tục tập luyện. Đến một lúc nào đó, bỏ
cả cung đi, mà vẫn bắn trúng! Rồi dần dần, chim chóc không bay vòng tránh nữa
mà ríu rít đến ở cùng với anh ta...”Yên Ba: Bây giờ anh đã đạt đến độ tự nhiên như nhiên chưa?
Nguyễn Huy Thiệp (cười): Cũng khó mà đạt đến tình trạng tâm lý ấy một cách hoàn toàn. Chỉ đang cố để có thể làm được điều đó. Con người đến một lúc nào đó, sẽ có một trạng thái tự nhiên như không. Cái cây ngoài kia kìa, nó không làm gì lớn lao cả, nó sống cố gắng đến mức khiêm tốn nhất và góp phần với cuộc sống thôi. Giống như tất cả cây cỏ, nếu người ta bứt nó đi thì nó vui vẻ chấp nhận như vậy, nhưng nếu không đốn hay thay nó bằng một cây khác thì nó vẫn sống, vẫn nở hoa, kết quả rất là khiêm nhường.
Nguyễn Huy Thiệp: Không phải! Thế nhưng tôi vẫn nghĩ vậy. Chẳng phải là cây cỏ đâu, mà cuộc sống chúng ta là vậy, cho dù ở địa vị, hoàn cảnh nào. Bố, mẹ, ông, bà… ai cũng thế cả. Không phải chỉ có anh trí thức, anh nhà văn mới nghĩ như vậy. Điều đó nó cũng ngậm ngùi, nhưng mà tự nhiên nó là thế.
Nguyễn Huy Thiệp: Không phải là viên mãn. Tuỳ theo cách nhìn của mỗi người. Đối với những người bi quan thì họ gọi đó là chán đời, là hậm hực với đời hay là cái gì đó tương tự. Đối với những người lạc quan, thì họ gọi đó là viên mãn hay là gì gì đó. Mình thấy đó là chuyện bình thường của tự nhiên. Đã là cuộc sống thì hãy chấp nhận tất cả những trạng thái đó, dù đó là cao thượng hay là dung tục, nọ kia. Chứ không thể nào sống mà tìm được một cái giải pháp tuyệt đối được. Trong cuộc đời, con người ta phải biết mình ở trong từng trạng thái. 50 tuổi, có thể coi là già rồi, phải nhường lại cho lớp trẻ thôi.
Nguyễn Huy Thiệp: Theo tôi, cho đến nay vẫn chưa có những công trình nghiên cứu có tính chất gọi là công phu, nhất là ở trên văn đàn hay là báo chí, về tác phẩm của tôi. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy hiện nay có lẽ tôi là một trong số những nhà văn được các sinh viên trẻ làm luận văn tốt nghiệp nhiều nhất. Tôi hỏi mấy giáo sư văn học ở Đại học tổng hợp, Đại học sư phạm Hà Nội, Huế và cả ở Sài Gòn, thì mấy ông đó cũng ngạc nhiên. Tức là các sinh viên tìm hiểu và có lẽ họ thấy cũng có nhiều cái bất ngờ. Có người tìm thấy những quan điểm văn chương, có người thấy những đoạn có chất thơ trong đó, có người thì lại tìm hiểu kỹ thuật truyện ngắn hay là những nụ cười trong các truyện. Tôi thấy đó là những cái rất thú vị, còn những dư luận công bố từ xưa đến nay trên các phương tiện truyền thông, kể cả ý kiến khen hoặc chê đều chưa xác đáng lắm. Có thể là do vội, hay khi đọc người ta tìm hiểu chưa kỹ.
Nguyễn Huy Thiệp: Tôi có thể tự hào là một trong những người đã có nhiều đóng góp về hình thức truyện ngắn. Tức là tôi đã làm thay đổi tất cả những quan niệm về hình thức truyện ngắn. Không dám nói nhiều về những lĩnh vực khác của văn học, nhưng riêng về thể loại truyện ngắn, thì tôi có thể tự hào về điều đó. Tôi đã đóng góp nhiều cho sự cách tân: về cách kể, về cách xây dựng nhân vật, cách dựng truyện…tóm lại là những gì thuộc về hình thức truyện ngắn.
Nguyễn Huy Thiệp: Có thể gọi là tín hiệu cũng được. Nhưng ở đây tôi thấy một nghịch lý của công việc viết văn, tức là công việc sáng tạo. Sáng tạo-hay là phát hiện ra những điều mới mẻ-là công việc rất tuyệt vời, nhưng mặt khác thì đó cũng là công việc rất bảo thủ. Nếu ta theo dõi tình hình văn học nghệ thuật, thì không chỉ ở mình mà tất cả những nơi khác trên thế giới cũng vậy thôi. Tức là phá vỡ được sự bảo thủ không phải là dễ đâu. Sự cách tân để đưa lại cho mình một sự sáng tạo mới không phải là chuyện đơn giản. Mọi người viết rất nhiều, nhưng để được thừa nhận một điều gì đó thì không phải là dễ dàng.
Nguyễn Huy Thiệp: Điều đó thì đúng! Bạn đọc đều như vậy cả. Nhưng có những nhà văn già lại không thông cảm với những khó khăn mà có thời chính họ đã từng trải qua...
Yên Ba: Bây giờ xin quay trở lại giai đoạn anh tuyên bố ngừng bút, “rửa tay gác kiếm”, vào khoảng năm 1993, sau thời anh làm nhà hàng ăn Hoa Ban. Vậy nguyên nhân nào khiến anh làm như vậy? Phải chăng anh cho cái thời của mình đã qua? Sau đó anh còn viết nữa không?
Nguyễn Huy Thiệp: Đó là khoảng thời gian tôi ý thức được rất rõ ràng về thời thế. Tôi là một người cảm nhận rất rõ về thời thế. Nếu xét về một khía cạnh nào đó, tôi có thể thấy là không khí thời đại lúc đó nó đã khác so với trước, tức là so với cái dạo tôi mới bắt đầu viết. Khi bắt đầu đổi mới, xã hội chúng ta có một cái gì đó như là một sự thay đổi toàn bộ thời thế. Đúng vậy không?
Nguyễn Huy Thiệp: Không phải! Mình không có cái suy nghĩ như vậy. Trong cuộc đời nó có nhiều chuyện vấp váp khác nữa. Ở cái giai đoạn khi mới bắt đầu viết văn, thì cái độ hồn nhiên và trong sáng của tôi nó cao lắm. Vừa rồi, khi tôi đọc lại cuốn hồi ký Nhớ lại của Đào Xuân Quý, thì tôi thậm chí chẳng hiểu gì hết! Tức là lúc đó tôi không quan tâm đến việc mình nổi tiếng hay những sự “đánh nhau” trong giới văn nghệ. Mặc dù khi đó, tôi đã có in mấy truyện trên báo Văn nghệ. Tôi không có ý nghĩ là kiếm chác hay cái gì đó tương tự. Ngay như ông Nguyên Ngọc, hồi đó tôi cũng không biết mặt mà sau này gặp ông ấy một cách ngẫu nhiên. Hôm ấy tôi đang đi làm với một anh bạn thì gặp ông ấy đang đi bộ ở vườn hoa Con Cóc ấy, anh bạn chỉ cho tôi đó là ông Nguyên Ngọc, lúc đó mới biết, rồi chào hỏi chuyện trò với nhau...
Nguyễn Huy Thiệp: Văn học thời kỳ đó đang trong thời điểm cách tân và nó đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử nhất định. Nó đã gắn chặt với đời sống xã hội và có nhiều tác động tích cực đến xã hội, kể cả về chính trị. Tất nhiên văn chương nghệ thuật không phải đều có lợi tất cả. Vẫn có những tác phẩm văn chương nghệ thuật có hại đấy chứ. Nhưng không phải vì thế mà văn chương nghệ thuật chỉ có làm mỗi việc là tuyên truyền chính trị mà thôi. Nó cần phải có một góc nhìn tương đối rộng rãi, thoáng đãng về văn học nghệ thuật. Những lúc ấy, nó tạo cơ hội cho các tài năng phát triển. Nếu không thì người ta lại đi tìm con đường khác. Đúng không? Không có ai khổ sở như là nhà văn trong tất cả các loại hình nghệ thuật sáng tạo. Nhọc nhằn lắm.
Nguyễn Huy Thiệp: Không! Tôi không đề cập đến những chuyện đó trong các tác phẩm của mình.
Yên Ba: Một số tác phẩm của anh đã gây ra nhiều xôn xao trong dư luận. Có những người bảo vệ anh quyết liệt, nhưng cũng có những người phê bình anh rất độc địa. Một vài truyện ngắn của anh theo ý của tôi hiểu là có những chi tiết kiểu “mượn văn chửi người”. Nếu bây giờ được phép viết lại những truyện đó, anh có viết như thế nữa không?
Nguyễn Huy Thiệp: Thời ấy nó khác. Văn chương của mình thời đó khác. Cái nỗi bất bình này không phải là của riêng tôi đâu. Ví dụ cái truyện trong đó tôi ám chỉ mấy ông, về sau tôi rất ân hận. Nhưng mà rõ ràng đó là những người lãnh đạo văn học nghệ thuật và họ phải là lương tâm của thời đại cơ mà. Cái thằng trí thức sống trong một thể chế bao cấp, mà lại như vậy thì làm sao giương cao những khẩu hiệu để thức tỉnh mọi người được. Cái nỗi bất bình của tôi lúc ấy, về một khía cạnh nào đó là nỗi bất bình của bạn đọc đấy chứ không phải là của riêng tôi đâu. Rõ ràng trong chuyện này, những ông cầm trịch cả cái giới văn học nghệ thuật cũng có cái tội liên đới. Tức ở một góc nào đó, cái chuyện tôi chửi cũng xứng đáng. Ông Nguyên Ngọc có phải là tay khờ đâu và cũng là một tay ghê gớm lắm chứ. Nhưng ông ấy cũng có nỗi bất bình giống như tôi và rất nhiều bạn đọc bình thường khác. Họ bất bình với cái nền nghệ thuật của chúng ta lúc bấy giờ, mà mấy ông này là đại diện.
Nguyễn Huy Thiệp: Đúng rồi! Nhưng hồi ấy mình viết những cái đó nó hồn nhiên lắm. Chính vì hồn nhiên nên mới làm được điều đó, chứ vì nếu một lý do nào đó thì không ai người ta chấp nhận và đó không phải là nghệ thuật nữa. Trong một nền văn học lành mạnh, thì người ta chọc đùa, giễu cợt nhau cũng là chuyện thường thôi. Ở Pháp người ta cũng có như thế, khi Balzac cay cú với Hugo chẳng hạn. Hay như Vương Sóc ở Trung Quốc gần đây. Điều đó thể hiện sự lành mạnh của nền văn học.
Yên Ba: Có phải vì những khó khăn đó mà anh đã chuyển sang viết kịch? Anh muốn gửi gắm điều gì ở lĩnh vực mới này?
Nguyễn Huy Thiệp: Tôi nghĩ rằng: văn học nó có thị trường của nó và nó phải vươn về phía đại chúng. Đến một lúc nào đó, tôi nghĩ chuyện viết kịch hay viết kịch bản phim rất quan trọng. Tôi viết vở kịch đầu tiên vào năm 1988. Hồi ấy Lưu Quang Vũ còn sống và ông Nguyễn Khải đã giới thiệu tôi với Lưu Quang Vũ. Ông Khải nói với tôi là Vũ rất muốn chuyển cái truyện Không có vua của tôi sang kịch. Thế là Lưu Quang Vũ và tôi gặp nhau bàn việc chuyển truyện đó sang kịch, hai người cùng hợp tác viết. Nhưng rồi khi ngồi nói chuyện với nhau, tôi thấy quan niệm văn chương, quan niệm kịch của Lưu Quang Vũ có khác với mình. Thế là tôi bảo Lưu Quang Vũ “anh cứ viết đi, tôi không viết nữa đâu”. Lưu Quang Vũ đồng ý và tỏ ý rất thích truyện đó, nhưng rồi anh ấy chưa kịp làm gì thì đã mất.
Nguyễn Huy Thiệp: Tôi nghĩ tất cả cũng chỉ mới trong sự thử nghiệm mà thôi. Bởi vì tôi chưa viết được nhiều lắm. Có lẽ phải viết được khoảng từ 15 đến 20 vở, thì lúc đó mới có thể nói được điều gì đó. Còn hiện nay, với những vở kịch của tôi, qua vài ba cách thể hiện, cũng như qua sự dàn dựng thử nghiệm của chị Phạm Thị Thành thì tôi thấy cái lối viết kịch của mình còn nhiều cái để sửa lại. Đúng ra, những nhà viết kịch phải ở trong các nhà hát, ở gần các đạo diễn, diễn viên, rồi họ phải đắm chìm trong không khí của sân khấu, lúc đó mới có thể thành công được. Moliere đã như thế! Hay Lưu Quang Vũ cũng đã từng như thế. Bởi vì viết một vở kịch để diễn thì phải gắn liền với một nhà hát nào đó, với những diễn viên nào đó, phải gắn với không khí cuộc sống lúc bấy giờ. Tôi đã từng đưa một số vở kịch của mình cho một số nhà hát như Nhà hát kịch Hà Nội chăng hạn, thế nhưng ông giám đốc đã từ chối dàn dựng.
Nguyễn Huy Thiệp: Những vở kịch của tôi, khi muốn lên sân khấu cần phải có sự hợp tác của đạo diễn, thậm chí phải viết lại một vài đoạn. Tức là tôi thiếu đi một cái không khí sân khấu để viết cũng như thiếu cái đó trong các vở kịch của mình. Hay là những vở kịch của tôi nó chưa đến được với những diễn viên và đạo diễn sân khấu. Tức là đạo diễn và diễn viên họ đã quen một cái lối làm việc rồi và tôi rất ngạc nhiên khi thấy văn hoá đọc của họ rất yếu. Hầu như họ không đọc hoặc là họ đọc mà không hiểu. Thậm chí ngay như nhiều người có tên tuổi, nếu có những đoạn văn mang tính trừu tượng là họ chịu.
Nguyễn Huy Thiệp: Vở đó tôi viết cho một tờ báo ở Pháp. Tôi không nhớ tên tờ báo đã đặt tôi viết vở đó. Ngày 29-4-1964 là ngày tờ báo đó ra đời; bởi vậy, cứ vào ngày 29-4 hàng năm, tờ báo đó lại mời một số nhà văn, hay là những tay nổi tiếng trên thế giới viết một cái gì đó về ngày đó, ở địa điểm mà mình sống và gửi cho họ. Thực ra họ chỉ mời mình viết một bài báo thôi, nhưng tôi lại biến lời mời đề nghị của họ thành việc viết một vở kịch. Tức là tôi viết về một ngôi chùa ở một ngôi làng của Việt Nam, chuyện diễn ra từ sáng sớm cho đến nửa đêm ngày 29-4. Tất nhiên trong đó nó có cả những vui, buồn, có cả những đau khổ, hạnh phúc, rồi chuyện nọ chuyện kia.
Nguyễn Huy Thiệp: Hồi ấy tôi có một tâm thế như thế này: tôi vừa mới làm xong pho tượng Phật lớn đặt trong vườn nhà. Bạn đọc đến với tôi rất nhiều, trong Nam ngoài Bắc, miền núi rồi miền xuôi…Nhiều lắm! Bạn đọc của tôi có cả những cô ca ve, vũ nữ, rồi những tay ở trong miền Nam ra. Họ đến với tôi, rồi trò chuyện với nhau. Có người thì mình an ủi họ, có người thì mình cho họ tiền. Ai đến cũng đặt những câu hỏi về bản thân họ. Từ cái tâm thế đó, tôi lấy tinh thần của tư tưởng đạo Phật “thiên thượng, địa hạ, duy ngã độc tôn”, tức là trên trời dưới đất thì con người ở giữa, để viết vở kịch đó.
Nguyễn Huy Thiệp: Một phần nào đó. Tôi nghĩ rằng cuộc sống càng ngày càng phức tạp và tôi cũng cần phải sống, theo như cái triết lý của đạo Phật là “sắc sắc không không” vậy. Khi mà tới được đạo, thì con người ta phải trải đời lắm mới hiểu được đạo. Đạo giống như chính là văn hoá của đời sống thôi mà. Tôn giáo, nó cũng là văn hoá.
Yên Ba: Anh có nói: nếu không có tôn giáo thì thế giới sẽ hỗn loạn ngay. Trong một vở kịch nào đó của anh đã có câu như thế?
Nguyễn Huy Thiệp: Đúng vậy! Tôn giáo cũng là một phần của đời sống xã hội, cũng như văn hoá vậy. Kể cả văn chương cũng thế. Nhưng tôn giáo thì nó có cái gì đó tập thể hơn, cộng đồng hơn. Dùng từ Đạo thì nó rõ nghĩa hơn. Đời cũng là Đạo, mà Đạo cũng là Đời. Anh xây nhà cũng có cái Đạo của anh. Anh làm báo cũng có cái Đạo làm báo. Anh làm chồng có cái Đạo làm chồng. Hay là anh bồ bịch với ai đó, thì cũng có cái Đạo riêng. Nhà văn cũng có cái Đạo của mình. Mỗi người đều có cái ý thức về điều đó. Nếu không có những cái đó, thì chẳng phải là con người nữa.
Nguyễn Huy Thiệp: Tôi vừa chịu đựng, đồng thời cũng vừa chấp nhận cái vai của mình. Có lẽ tôi đóng vai của tôi cũng được! Trong nhà, tôi có thể tự hào với vợ con, ra ngoài tôi cũng có thể tự hào với bạn bè, với độc giả trong và ngoài nước. Có lẽ đến bây giờ, tôi sống tự nhiên nó vậy, mà chẳng có một cái gì khác cả. Từ trong nhà đến ra xã hội, từ bạn đọc già đến trẻ, trong nước hay nước ngoài, quen biết hay không quen biết, tôi đều sống rất tự nhiên, không phải cố gắng gì cả.
Nguyễn Huy Thiệp: Làm con người, ai cũng phải thế cả.
Nguyễn Huy Thiệp: Nhân khi anh hỏi hỏi về tôi, thì tôi mới thấy rằng: nhà văn, cốt yếu là một người chịu đựng cô độc, mỗi người trong chúng ta là một sa mạc. Đây là câu của một tay nhà văn nước ngoài. Tôi thấy câu này có lý lắm. Một câu nữa nói về nhà văn mà tôi cũng thích là: Vinh quang đẹp đẽ nhất của nhà văn là làm cho những người có thể tư tưởng chịu tư tưởng. Làm được điều ấy không phải dễ. Vì khi sáng tạo nó phải đơn độc chứ. Nếu anh không chịu đựng được điều đó, thì anh không thể sáng tạo ra được cái gì đâu.
Nguyễn Huy Thiệp: Văn học chính là quá trình quan sát bản thân cá nhân mình. Mình tự phát hiện những vấn đề trong cuộc sống của bản thân mình, của tự nhiên, của xã hội và mình kể lại cho mọi người nghe. Làm sao anh phải kể lại một cách chân thực nhất, nghệ thuật nhất. Không được giả tạo. Tôi nghĩ rằng, công việc viết văn là công việc sáng tạo, công việc khám phá bản thân mình, khám phá tự nhiên, khám phá xã hội và diễn đạt lại những điều mình khám phá được cho mọi người biết một cách nghệ thuật và chân thực nhất.
Nguyễn Huy Thiệp: Văn học nó gắn với rất nhiều thứ, chứ mỗi cột mốc tiêu biểu không có ý nghĩa gì đâu. Bởi văn học luôn luôn đa dạng và phong phú lắm. Anh làm sao biết được sau cái gọi là mốc tiêu biểu đó là như thế nào? Cũng giống như anh đi trên con đường cao tốc từ Hà Nội về Hải Phòng, hay vào Thành phố Hồ Chí Minh, anh làm sao biết được sau cây số 10 nó như thế nào! Anh cứ nghĩ là ở cây số 11 nó sẽ bao la, thoáng đãng hơn. Nhưng đã chắc gì đâu! Tức là văn học nó gắn với rất nhiều thứ và mỗi người viết có một càm giác, một cách nhìn nhận thời thế khác nhau.
Nguyễn Huy Thiệp: Tôi nghĩ rằng, văn học Việt Nam cũng có một sự đổi mới gắn liền với sự đổi mới của toàn xã hội. Như về y tế, giáo dục… Trước kia nó mang tính bế quan toả cảng, mang tính khép kín. Bây giờ, nó bắt đầu trỗi dậy, vươn tới và có sự hoà nhập, tìm tiếng nói chung với văn học thế giới. Tất nhiên để đạt được điều đó không phải là dễ. Cũng giống như sách của tôi in ở nước ngoài, nó cũng là một thứ hàng hoá như cái áo của ta xuất qua Đông Âu, hay bán cá qua Mỹ chẳng hạn. Văn học nó cũng như thế. Nó không thể cứ ở trong nhà, và rồi “con hát mẹ khen hay” như ngày xưa nữa.
Nguyễn Huy Thiệp: Ở nhà thế thôi! Trông nhà, làm vườn, rồi cơm nước cho vợ con, theo dõi các con học hành. Làm một người chồng, người cha mẫu mực trong gia đình. Rồi suy nghĩ, viết được cái gì nữa thì viết…

Nhận xét
Đăng nhận xét