BỎ RƠI VIỆT NAM:-8-ABRAMS CHUẨN BỊ BÀN GIAO CUỘC CHIẾN

 
BỎ RƠI VIỆT NAM:  
8-ABRAMS CHUẨN BỊ BÀN GIAO CUỘC CHIẾN

Như Henry Kissinger đã chỉ ra, việc rút quân của Hoa Kỳ đã tạo ra động lực riêng; bất kỳ nỗ lực nào của tổng thống nhằm sửa đổi lịch trình, kể cả khi ông có thể có khuynh hướng như vậy vì tình hình chiến trường ở Nam Việt Nam, đều gây ra phản ứng mạnh mẽ từ Quốc hội, giới truyền thông và thành phần phản chiến. Do đó, sau khi lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu rút quân, QLVNCH buộc phải đảm nhận nhiều trách nhiệm hơn đối với cuộc chiến, bất kể tiến trình Việt Nam hóa và bình định diễn ra như thế nào. Đó là tình hình mà Tướng Abrams phải đối mặt.  Trong khi vẫn đang chiến đấu, ông đã phải tăng cường nỗ lực chuẩn bị cho QLVNCH để lấp đầy khoảng trống trên chiến trường do lực lượng Hoa Kỳ tái bố trí để lại. Về cơ bản, ông đang chiến đấu với thời gian. Theo đó, ông hy vọng sẽ duy trì được “năng lực chiến đấu cân bằng và nhiều khả năng nhất có thể trong thời gian dài nhất có thể”.
 
Khi Abrams tiếp quản quyền chỉ huy MACV từ Tướng Westmoreland vào tháng 7 năm 1968, ông đã nhận ra rằng cần phải làm gì đó để cải thiện năng lực chiến đấu của lực lượng vũ trang Nam Việt Nam. Ngay cả trước khi Tổng thống Nixon tuyên bố Việt Nam hóa là chính sách mới của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam, Tướng Abrams đã thực hiện các biện pháp để tăng hiệu quả của cơ sở huấn luyện QLVNCH, vốn trước đây không phải là trọng tâm trong nỗ lực của MACV.  Abrams đã kế thừa sứ mệnh lâu đời của Hoa Kỳ là kết thúc và đánh bại Cộng sản để buộc họ phải rút khỏi Nam Việt Nam, nhưng với tuyên bố của Nixon về chính sách Việt Nam hóa của mình, sứ mệnh, như đã mô tả trước đó, và trọng tâm của MACV đã thay đổi mạnh mẽ.
 
Vào ngày 7 tháng 7 năm 1969, tổng thống đã gặp Kissinger, Laird, Rogers, Wheeler, John Mitchell và Tướng Robert E. Cushman Jr. (một sĩ quan thủy quân lục chiến là phó giám đốc CIA) trên du thuyền tổng thống Sequoia. Mục đích của cuộc họp là thảo luận về sự lắng dịu rõ ràng trong cuộc chiến ở Nam Việt Nam. Số lượng các cuộc tấn công của kẻ thù ở Nam Việt Nam đã giảm sau trận chiến Đồi Thịt Băm, và thương vong của Hoa Kỳ đã đạt mức thấp nhất trong năm. Theo Kissinger, cuộc thảo luận tập trung vào việc xác định lý do tại sao mức độ giao tranh đã giảm xuống—liệu đó có phải do Hà Nội kiệt sức, một chiến lược đàm phán mới, hay một nỗ lực của Hà Nội nhằm đạt được sự xuống thang bằng thỏa thuận ngầm? Kissinger sau đó đã viết, “Đó là triệu chứng của sự nhầm lẫn về mặt trí tuệ vào giai đoạn khi mọi người cảm thấy nhẹ nhõm trước tình hình tạm lắng về quân sự làm giảm cả thương vong và áp lực trong nước, không ai đặt câu hỏi liệu sự tạm lắng có thể không phản ánh thực tế rằng chiến lược của chúng ta đang thành công và do đó nên được tiếp tục hay không.”
 
Thay vào đó, có “sự nhất trí” rằng tình hình đã mang đến một cơ hội tuyệt vời để đáp lại bằng cách hạ nhiệt các hoạt động của Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam; đồng thời, các nỗ lực của MACV có thể được đưa vào nỗ lực Việt Nam hóa một cách thuận lợi. Nixon đã đồng ý và ủy quyền cho Bộ trưởng Quốc phòng Laird ban hành các hướng dẫn mới cho Tướng Abrams.
 
 Kết quả là một tuyên bố sứ mệnh mới cho MACV nhấn mạnh mong muốn của Hoa Kỳ “hỗ trợ Lực lượng vũ trang VNCH tiếp quản ngày càng nhiều các hoạt động chiến đấu”. Tuyên bố sứ mệnh (có hiệu lực vào ngày 15 tháng 8 năm 1969) giao cho Abrams và chỉ huy của ông tập trung vào (1) cung cấp “hỗ trợ tối đa” cho Nam Việt Nam để tăng cường lực lượng của họ, (2) hỗ trợ nỗ lực bình định và (3) giảm lượng tiếp tế cho kẻ thù. Abrams cũng được yêu cầu một lần nữa phải kiềm chế thương vong của Hoa Kỳ. Henry Kissinger sau đó đã báo cáo rằng Nixon đã thay đổi ý định của mình về các lệnh này và cố gắng hủy bỏ chúng. Tuy nhiên, Bộ trưởng Laird cho biết các lệnh đã được gửi đi và chúng được phép có hiệu lực.
 
 Nếu lời kể của Kissinger là chính xác và tổng thống đã cố gắng hủy bỏ các lệnh, Nixon đã không tiết lộ lý do tại sao ông lại suy nghĩ lại về việc thay đổi nhiệm vụ chính thức cho MACV. Có lẽ ông lo ngại về việc can thiệp vào các vấn đề quân sự, hoặc có lẽ ông không muốn báo hiệu cho Bắc Việt rằng Hoa Kỳ đang bắt đầu giảm mức độ cam kết của mình đối với cuộc chiến. Tuy nhiên, tổng thống đã giữ nguyên các lệnh và nhắc lại hướng dẫn mới trực tiếp khi ông có chuyến thăm bất ngờ tới Việt Nam vào cuối tháng 8. Tại đó, ông đã nhấn mạnh sự thay đổi trọng tâm của lực lượng Hoa Kỳ, nói rằng “nhiệm vụ chính của quân đội Hoa Kỳ là cho phép lực lượng Nam Việt Nam đảm nhận toàn bộ trách nhiệm cho an ninh của Nam Việt Nam”. Đáng chú ý là tổng thống đã không công khai hướng dẫn mới này cho đến bài phát biểu trên truyền hình toàn quốc vào tháng 11.
 
 Tướng Abrams, người trước đó đã bày tỏ sự lo ngại về việc tăng tốc rút quân của Hoa Kỳ, đã hiểu được các lệnh hành quân của mình và đã tăng cường các biện pháp để cải thiện khả năng chiến đấu của các đơn vị Nam Việt Nam.
 
Vấn đề này không phải là mới đối với Abrams, người, kể từ khi nắm quyền chỉ huy vào năm 1968, đã quan tâm đến những gì về cơ bản là hai cuộc chiến khác nhau do lực lượng Hoa Kỳ và Nam Việt Nam tiến hành. Abrams đã tìm cách chấm dứt sự phân chia vai trò và nhiệm vụ giữa lực lượng chiến đấu của Hoa Kỳ và miền Nam  thông qua việc áp dụng một chiến lược đồng minh kết hợp duy nhất, do đó loại bỏ “sự tồn tại ngầm của hai chiến lược riêng biệt, tiêu hao và bình định.” Ông mô tả cách tiếp cận này là “một chiến lược tập trung vào việc bảo vệ người dân để chính quyền dân sự có thể thiết lập quyền lực của mình trái ngược với quan niệm trước đó về mục đích của cuộc chiến—tiêu diệt lực lượng của kẻ thù.”  Khái niệm “một cuộc chiến” đã được chính thức hóa trong Kế hoạch Mục tiêu của MACV được phê duyệt vào tháng 3 năm 1969.
 
Abrams và Đại sứ Bunker đã thuyết phục Tổng thống Thiệu rằng cách tiếp cận của Abrams là cách đúng đắn để tiến hành và đảm bảo sự đồng ý của ông rằng Kế hoạch Mục tiêu của MACV sẽ là cơ sở cho các nỗ lực của lực lượng đồng minh tại  Nam Việt Nam.  Quyết định này được chính thức đưa ra khi Abrams và Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Liên quân miền Nam, ký Kế hoạch Chiến dịch Kết hợp, trong đó nêu rõ rằng “ QLVNCH phải tham gia đầy đủ trong khả năng của mình vào mọi loại hoạt động… để chuẩn bị cho thời điểm phải gánh vác toàn bộ trách nhiệm”. Kế hoạch này tiếp tục xác định an ninh nhân dân và hỗ trợ bình định là mục tiêu chính của lực lượng Hoa Kỳ và Nam Việt Nam.
 
Ngay sau khi kế hoạch mới được ký kết, Abrams bắt đầu đảm bảo rằng lực lượng MACV hoàn toàn chấp nhận khái niệm “một cuộc chiến” của ông, xóa bỏ mãi mãi sự phân công lao động vốn thường làm chia rẽ các nỗ lực của đồng minh. Abrams đã bắt đầu chuyển trọng tâm của MACV khi ông nhận được lệnh thay đổi nhiệm vụ chính thức từ Tổng thống Nixon.  Được trang bị chiến lược kết hợp “một cuộc chiến” mới và được tổng tư lệnh thúc đẩy Việt Nam hóa chiến tranh, Abrams hy vọng sẽ kiểm soát được tình hình chiến đấu đồng thời chuyển giao trách nhiệm chính trong cuộc chiến cho Nam Việt Nam khi quân đội Mỹ rút quân ngày càng nhiều về quy mô và tần suất. Vào thời điểm Abrams nhận được lệnh mới, ông đã khởi xướng các chương trình mở rộng cơ cấu lực lượng của QLVNCH và cung cấp nhiều vũ khí hiện đại hơn cho Nam Việt Nam, như đã thảo luận ở trên. Trong khi những cải tiến này đang được thực hiện, Abrams tập trung vào việc tăng cường khả năng chiến đấu của QLVNCH trên chiến trường, một phần bằng cách để quân đội miền Nam chiến đấu song song với quân đội Mỹ trong các hoạt động kết hợp trên chiến trường. Các đơn vị của Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đã tiến hành các hoạt động kết hợp trước khi áp dụng chính sách “một cuộc chiến” vào năm 1969, nhưng trong các hoạt động trước đó, quân đội Nam Việt Nam thường đóng vai trò hỗ trợ thứ cấp, vai trò ở ngoại vi của hành động chính. Nhiều chỉ huy tác chiến người Mỹ không muốn hợp tác hoạt động với các đơn vị miền Nam và thường coi QĐVNCH không hơn gì “một gánh nặng bổ sung” phải mang theo, “có khả năng gây ra vấn đề… hơn là hữu ích.” Mặc dù tình hình đã thay đổi theo hướng tốt hơn sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968, Abrams, đối mặt với nhiệm vụ cấp bách là Việt Nam hóa chiến tranh, đã ra lệnh hợp tác chặt chẽ hơn giữa lực lượng Mỹ và miền Nam. Hy vọng là các đơn vị Mỹ sẽ đóng vai trò là mô hình cho binh lính Sài Gòn bằng cách tích hợp chặt chẽ hơn các hoạt động của hai lực lượng quốc gia. Sự tích hợp như vậy đã hoạt động rất tốt ở Hàn Quốc và cuối cùng đã cải thiện khả năng chiến đấu của lực lượng vũ trang Cộng hòa Hàn Quốc. Abrams và các cố vấn của ông rõ ràng hy vọng rằng mô hình Hàn Quốc cũng sẽ có hiệu quả với Nam Việt Nam. Khi lực lượng Nam Việt Nam trở nên có năng lực hơn trên chiến trường, họ có thể gánh vác một phần gánh nặng lớn hơn khi lực lượng chiến đấu của Hoa Kỳ liên tục được rút đi.
 
Một cựu tướng lĩnh QĐVNCH đã mô tả cách tiếp cận này, lưu ý rằng
 
bằng cách tham gia vào các hoạt động chiến đấu cùng với các đơn vị Hoa Kỳ, lực lượng Việt Nam—chính quy và lãnh thổ—sẽ có được kinh nghiệm thực tế và có giá trị mà một trung tâm huấn luyện khó cung cấp được . Do đó, các hoạt động kết hợp và chung không chỉ mang đến cho các đơn vị QĐVNCH cơ hội quan sát các phương pháp tác chiến của Hoa Kỳ, cách Hoa Kỳ sử dụng hỏa lực và các tài sản cơ động, và khả năng chỉ huy của Hoa Kỳ trong hành động, mà còn mang lại những lợi ích bên lề của sự hỗ trợ chiến đấu bổ sung mà nếu không thì không thể có được từ các nguồn lực của Việt Nam. Trên thực tế, đây là một loại hình đào tạo tại chỗ hoặc trong hành động rất đặc biệt, trong đó các đơn vị Hoa Kỳ đóng vai trò hướng dẫn bằng cách đưa ra các ví dụ thực tế, tích cực về các hành động tác chiến và phản công trong nhiều tình huống chiến thuật và loại địa hình khác nhau;  và các đơn vị QĐVNCH dưới sự chỉ huy của họ được hưởng lợi từ việc quan sát và noi theo các đơn vị Hoa Kỳ.
 
Thật không may, sáng kiến ​​đưa quân đội Nam Việt Nam vào nỗ lực chiến đấu chính thường không đồng đều, thay đổi tùy theo từng vùng chiến thuật của quân đoàn. Có một số lý do có thể xảy ra. Một số chỉ huy cấp cao của Hoa Kỳ có thái độ cảnh giác với binh lính miền Nam và khái niệm “một cuộc chiến” của Abrams. Tuy nhiên, Tướng Davidson, sĩ quan tình báo J-2 của Abrams tại MACV, đã phản đối những người đổ lỗi thái độ cảnh giác này cho những thiếu sót của nỗ lực Việt Nam hóa. Ông viết: “Nó đã trở thành sự hiểu biết thông thường cho rằng khái niệm mới đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng vì các chỉ huy cấp cao của Abrams từ chối ủng hộ nó. Điều này là vô lý. Trong nhiều trường hợp, các sĩ quan cấp tướng ở Việt Nam đồng ý với chiến lược của Abrams và thực hiện với sự tận tụy. Ngay cả những người không đồng ý với khái niệm này cũng tận tâm, dù không nhiệt tình, đã ủng hộ hết mình. Bản thân Abrams sẽ không chấp nhận ít hơn, và ông có quyền thực thi.” Davidson có thể đã hạ thấp sự phản đối đối với kế hoạch; không rõ liệu tất cả các chỉ huy cấp cao của Abrams có nghĩ rằng khái niệm mới của ông là một ý tưởng hay không, nhưng cũng không nghi ngờ gì nữa Abrams đã nắm giữ sự nghiệp của họ trong tay và họ phải ủng hộ ý tưởng của ông hoặc phải gánh chịu hậu quả. Tuy nhiên, một số chỉ huy Hoa Kỳ đã tích cực hơn những người khác trong việc cố gắng thực hiện chương trình mới.
 
Bản thân Nam Việt Nam đã chứng tỏ là một yếu tố khác góp phần vào những kết quả khác biệt của chương trình mới.  Khả năng lãnh đạo, tinh thần chiến đấu và sự nhạy bén về chiến thuật là khác nhau trong toàn bộ lực lượng vũ trang Nam Việt Nam. Không phải mọi đơn vị và chỉ huy QLVNCH đều sẵn sàng giữ lời hứa của mình. Do đó, cách tiếp cận “một cuộc chiến” đã đạt được nhiều thành công hơn ở một số lĩnh vực so với những lĩnh vực khác.
 

“MỘT CUỘC CHIẾN”
Tại Quân đoàn I, Trung tướng Richard G. Stilwell, chỉ huy Quân đoàn XXIV của Hoa Kỳ, đã làm việc rất chặt chẽ với tư lệnh sư đoàn 1 của QĐVNCH, Thiếu tướng (sau này là Trung tướng) Ngô Quang Trưởng, tích hợp các đơn vị Nam Việt Nam vào các kế hoạch tác chiến với tư cách là đối tác toàn diện. Theo những gì về cơ bản là một bộ chỉ huy kết hợp giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa, các lực lượng miền Nam hoạt động chặt chẽ với Sư đoàn Thủy quân Lục chiến 3 của Hoa Kỳ, Sư đoàn Nhảy dù 101 (Cơ động trên không) và Lữ đoàn 1 của Sư đoàn Bộ binh 5 (Cơ giới) tại các tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên.  Sau khi Stilwell được Thiếu tướng Melvin Zais thay thế vào cuối năm 1969, vị chỉ huy mới tiếp tục nhấn mạnh vào các hoạt động phối hợp của Stilwell, và các lực lượng Hoa Kỳ khác trong Quân đoàn I đã tăng cường các nỗ lực hợp tác của họ với QLVNCH. Ở nửa phía nam của khu vực, Sư đoàn Bộ binh 23 của Hoa Kỳ thường xuyên tiến hành các hoạt động phối hợp với Sư đoàn Bộ binh 2 (QLVNCH) tại các tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi. Sư đoàn TQLC số 1 của Hoa Kỳ, bảo vệ khu vực Đà Nẵng, đã tiến hành các hoạt động phối hợp với các lực lượng Khu đặc biệt Quảng-Đà và Trung đoàn Bộ binh 51 của miền Nam.. Abrams cực kỳ hài lòng với thành tích của các lực lượng miền Nam tại Quân đoàn I; sau đó vào năm 1969, ông đã ra lệnh cho Sư đoàn Kỵ binh số 1 của Hoa Kỳ đi về nam, định hướng lại các lực lượng tác chiến còn lại về mục tiêu an ninh khu vực, và cuối cùng gửi về Mỹ một trong hai sư đoàn TQLC  Hoa Kỳ đang đóng tại đó.
 
Tại Quân Khu II, các chỉ huy Hoa Kỳ cũng theo đuổi các hoạt động kết hợp, nhưng ít thành công hơn. Trước cuối năm 1968 và đầu năm 1969, sự hợp tác  giữa lực lượng Hoa Kỳ và QĐVNCH tại Quân đoàn II phần lớn không hiệu quả. Lực lượng Hoa Kỳ quan tâm đến các đơn vị chủ lực của địch ở các khu vực xa xôi thuộc Cao nguyên Trung phần, trong khi lực lượng VNCH giới hạn hoạt động của mình trong việc hỗ trợ bình định ở các vùng ven biển đất thấp và các trung tâm dân cư. Với việc thiết lập khái niệm “một cuộc chiến” của Tướng Abrams, Trung tướng William R. Peers, chỉ huy Lực lượng Dã chiến I, và người đồng cấp của ông, Trung tướng Lữ Lan, chỉ huy Quân đoàn II, đã nhất trí rằng đã đến lúc phải đưa ra một phương tiện để khai thác lợi thế của mỗi lực lượng quốc gia trong khi giảm thiểu những bất lợi tương ứng của họ. Họ cùng nhau thành lập chương trình “Bắt cặp”, yêu cầu mỗi đơn vị QĐVNCH phải liên kết chặt chẽ và liên tục với một đơn vị đối tác của Hoa Kỳ. Các hoạt động sẽ được tiến hành chung, bất kể quy mô đơn vị mà mỗi lực lượng có thể bố trí, và sự phối hợp và hợp tác được thực hiện từ quân đoàn đến tiểu đoàn và quận. Chương trình “Cặp đôi” được coi là một phương tiện nâng cao hiệu quả chiến đấu của QĐVNCH và chuẩn bị cho các đơn vị trong Quân đoàn II gánh vác nhiều gánh nặng tác chiến hơn. Do đó, khái niệm này sau đó đã được nhân rộng để bao gồm cả pháo binh Việt Nam và các đơn vị hỗ trợ chiến đấu khác. Theo chương trình này, Sư đoàn Bộ binh số 4 và Lữ đoàn Nhảy dù số 173 của Hoa Kỳ đã hợp lực với các sư đoàn bộ binh số 22 và 23 của QĐVNCH.
 
 Peers và Lan ra lệnh cho Sư đoàn Bộ binh số 4 của Hoa Kỳ và hai trung đoàn VNCH giữ chân lực lượng Cộng sản dọc theo biên giới trong khi họ tập trung nỗ lực của các đơn vị còn lại của Hoa Kỳ và VNCH vào việc khôi phục và mở rộng quyền kiểm soát của Sài Gòn đối với dân số ven biển, bao gồm cả các tỉnh Bình Định và Phú Yên vốn có truyền thống bị tranh chấp. Sau khi khởi xướng chương trình “Cặp đôi”, ba hoạt động phối hợp quan trọng đã được tiến hành tại Quân đoàn II,  và mỗi hoạt động đều đạt được mức độ thành công khiêm tốn. Tuy nhiên, cách tiếp cận này không hiệu quả bằng các hoạt động phối hợp tại Quân đoàn I vì một số lý do. Đầu tiên, hai sở chỉ huy cấp quân đoàn, không giống như những sở chỉ huy tại Quân đoàn I, không được đặt tại cùng một địa điểm, khiến việc phối hợp trở nên khó khăn hơn. Ngoài ra, các chỉ huy chiến trường QĐVNCH tại Quân đoàn II không nhiệt tình làm việc với lực lượng Hoa Kỳ như Thiếu tướng Trưởng và các chỉ huy cấp dưới  của ông tại Quân đoàn I. Mặc dù có những tiến triển ban đầu trong việc cải thiện sự tự tin và năng lực của các đơn vị QĐVNCH trong Quân đoàn II, chương trình “Cặp đôi” đã bị hủy bỏ vào cuối năm 1969.
 
Trong Quân Khu IV của Quân đoàn IV (Đồng bằng sông Cửu Long), sự hiện diện chính của Hoa Kỳ là Sư đoàn Bộ binh số 9, đã đến đất nước vào năm 1967. Trước năm 1969, sư đoàn Hoa Kỳ hiếm khi làm việc với ba sư đoàn VNCH trong khu vực hoặc các đơn vị lãnh thổ ĐPQ/DQ. Hơn nữa, Thiếu tướng Julian J. Ewell, chỉ huy Sư đoàn Bộ binh số 9, tin rằng lực lượng Nam Việt Nam ở Đồng bằng không hiệu quả và cảnh báo rằng miền Nam chưa sẵn sàng để nắm quyền kiểm soát khu vực hoạt động của sư đoàn Hoa Kỳ. Do đó, nhiều người đã ngạc nhiên khi Sư đoàn 9 được chọn làm sư đoàn đầu tiên được tái bố trí về Mỹ sau thông báo Midway. Như Jeffrey Clarke chỉ ra, quyết định này, ít nhất, một phần là động thái chính trị được thiết kế để giành được sự ủng hộ cho chính sách Việt Nam hóa của chính quyền Nixon bằng cách thực hiện lời hứa đưa quân chiến đấu về nước thay vì chỉ đưa về nhân sự hỗ trợ. Bất chấp những cảnh báo của Ewell về năng lực quân sự của miền Nam tại Đồng bằng sông Cửu Long, việc rút Sư đoàn 9 cũng có ý nghĩa về mặt chiến lược. Khoảng năm 1969, tình hình địch ở Đồng bằng sông Cửu Long khá ổn định, vì lực lượng Việt Cộng trong khu vực đã bị suy yếu nghiêm trọng sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968. Ngoài ra, Đồng bằng sông Cửu Long nằm ở cuối tuyến đường tiếp tế của Bắc Việt và không thể dễ dàng được tăng cường. Nếu có rắc rối xảy ra, Tướng Abrams có thể chuyển lực lượng Hoa Kỳ đến khu vực này từ khu vực Quân đoàn III gần đó. Do đó, việc rút quân Sư đoàn 9 chỉ có rủi ro vừa phải theo quan điểm quân sự; về mặt chính trị, động thái này chứng tỏ Nixon sẵn sàng rút quân tác chiến. Trong trường hợp này, logic quân sự hợp lý trùng khớp với sự thuận lợi về mặt chính trị. Điều tương tự không phải lúc nào cũng đúng đối với việc cắt giảm thêm quân.
 
Việc rút quân của Hoa Kỳ khỏi Đồng bằng sông Cửu Long diễn ra nhanh chóng.  Lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu rút lui khỏi các hoạt động tác chiến vào tháng 6 năm 1969, và sư đoàn đã rời đi vào cuối tháng 8 (mặc dù một trong ba lữ đoàn vẫn ở lại Việt Nam và được chuyển đến Quân Khu III). Bộ phận công vụ của Quân đội Hoa Kỳ được chỉ thị nhấn mạnh cả những thành tựu của quân đội Hoa Kỳ ra đi và khả năng lực lượng miền Nam tiếp tục hoạt động mà không có họ.
 
Bất chấp sự chỉ đạo này, sự thật của tình hình lại là một điều gì đó khác. Khu vực hoạt động của Sư đoàn Bộ binh số 9 trước đây được giao lại cho Sư đoàn Bộ binh số 7 của miền Nam. Như Tướng Ewell đã chỉ ra, Sư đoàn 7 không chuẩn bị để đảm nhận trách nhiệm cho khu vực này vì một số lý do, trong đó ít nhất là do lãnh đạo của sĩ quan cấp cao. Sư đoàn gặp phải nhiều vấn đề, nhưng may mắn cho cả Washington và Sài Gòn, hoạt động của kẻ thù ở Đồng bằng vẫn ở mức thấp vào cuối năm 1969 và 1970;  do đó, sự kém hiệu quả của Sư đoàn 7 không dẫn đến hậu quả tức thời nào.
 
Tại Quân Khu III, chỉ huy Lực lượng Dã chiến II của Hoa Kỳ, Trung tướng Julian Ewell (người đã được thăng chức và trao quyền chỉ huy Lực lượng Dã chiến II tại Long Bình sau khi Sư đoàn Bộ binh 9 rời đi) và người đồng cấp của ông, Trung tướng Đỗ Cao Trí, chỉ huy Quân đoàn III, đã phải đối mặt với những hoàn cảnh khó khăn. Quân Khu III bao gồm 11 tỉnh bao quanh Sài Gòn. Khu vực này, có biên giới phía tây là các khu căn cứ địa của Cộng sản ở Campuchia, bao gồm một số tuyến đường xâm lược lịch sử chính vào trung tâm miền Nam. Mối đe dọa kết hợp của Bắc Việt-Việt Cộng vẫn còn quá mạnh vào năm 1969 đối với các lực lượng miền Nam tại Quân đoàn III, vốn không được coi là một trong những đơn vị thiện chiến trong QLVNCH. Ngoài ra, quân đội trong khu vực này theo truyền thống bị ràng buộc với các nhiệm vụ an ninh khu vực, thay vì hung hăng tìm diệt kẻ thù.  Tướng Ewell được thông báo vào tháng 4 năm 1969 rằng ông sẽ không nhận thêm nguồn lực nào từ Hoa Kỳ và rằng ông phải thúc giục các sư đoàn miền Nam hành quân “bất chấp các chỉ huy của họ”.
 
Ấn tượng với những thành công của các hoạt động phối hợp giữa lực lượng Hoa Kỳ và  VNCH tại Quân đoàn I, Tướng Ewell quyết định thiết lập một chương trình tương tự của riêng mình. Ông tin rằng chìa khóa để giành chiến thắng ở Việt Nam là áp dụng thành công sức mạnh tác chiến, chẳng hạn như pháo binh, không quân, lục quân và các yếu tố khác của tác chiến và hỗ trợ dịch vụ tác chiến. Ông biết từ kinh nghiệm của mình với tư cách là một chỉ huy sư đoàn ở Đồng bằng rằng miền Nam gặp khó khăn trong việc phối hợp sự hỗ trợ ít ỏi mà họ có.  Ewell đã lên kế hoạch sửa chữa những thiếu sót này bằng cách kết hợp mỗi đơn vị miền Nam chính trong Quân đoàn III với một lực lượng Mỹ tương tự sẽ cung cấp hỗ trợ không quân, pháo binh và liên lạc cần thiết để giúp các đơn vị Nam Việt Nam trở thành lực lượng khả thi trên chiến trường và đồng thời, dạy họ cách sử dụng tốt hơn các loại vũ khí chiến tranh. Người đồng cấp của ông, Trung tướng Trí, hoàn toàn đồng ý với khái niệm của Ewell, thừa nhận rằng “vấn đề chính của QĐ II là cải thiện ba sư đoàn VNCH”, và cùng với Ewell Trí bắt đầu thiết lập một “hệ thống bạn bè” sẽ “gắn” một đơn vị lớn của Hoa Kỳ với mỗi sư đoàn của Trí.
 
Kết quả là một chương trình có tên là “Đồng Tiến”. Ba mục tiêu chính của chương trình là (1) tăng số lượng và chất lượng của các hoạt động chung được kết hợp và phối hợp;  (2) thúc đẩy đáng kể ba sứ mệnh chính của QĐVNCH là hỗ trợ bình định, cải thiện hiệu quả chiến đấu và tăng cường các hoạt động tác chiến; và (3) tăng đáng kể việc sử dụng hiệu quả các yếu tố chiến đấu và hỗ trợ chiến đấu quan trọng, đặc biệt là các tài sản hàng không của quân đội. Quân đoàn III và Lực lượng Dã chiến II Hoa Kỳ sẽ liên kết chặt chẽ trên cơ sở liên tục. Khi quân đoàn VNCH đạt đến mức hiệu quả chiến đấu thỏa đáng, nó sẽ bị loại dần khỏi chương trình và quay trở lại các hoạt động độc lập. “Đồng Tiến” đã ghép đôi các sư đoàn bộ binh Hoa Kỳ số 1 và 25 và Lữ đoàn bộ binh nhẹ 199 với các sư đoàn bộ binh 5, 25 và 18 của QĐVNCH. Ở các khu vực biên giới, Sư đoàn kỵ binh Hoa Kỳ số 1 (Không vận) đã được ghép đôi với Lữ đoàn Dù Việt Nam.
 
Theo một nghiên cứu sau chiến tranh của trung tướng QĐVNCH Ngô Quang Trường, chương trình “Đồng Tiến” đã cải thiện đáng kể hiệu quả của các đơn vị miền Nam trên khắp Quân đoàn III và họ bắt đầu thể hiện tính hiếu chiến hơn, phối hợp tốt hơn và nỗ lực chiến đấu bền bỉ hơn. Ví dụ, Sư đoàn bộ binh Hoa Kỳ số 1 và 5 của VNCH đã phối hợp rất chặt chẽ với nhau, và các hoạt động phối hợp lặp đi lặp lại đã chuẩn bị cho sư đoàn VNCH đảm nhận khu vực hoạt động của đơn vị Hoa Kỳ khi đơn vị này được tái bố trí vào năm 1970. Khi Sư đoàn VNCH số 5 chuyển sở chỉ huy của mình đến Tỉnh Bình Long và nắm quyền kiểm soát khu vực “Big Red One” cũ, một cột mốc quan trọng trong quá trình Việt Nam hóa đã được thông qua.
 
Mặc dù các hoạt động phối hợp này gặp nhiều khó khăn và có mức độ thành công khác nhau, nhưng trong hầu hết các trường hợp, chúng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình độ tác chiến của các đơn vị QLVNCH. Theo cựu tướng lĩnh Nam Việt Nam Đồng Văn Khuyên, chúng đã giúp mở đường cho các chỉ huy và quân đội miền Nam đảm nhận những trách nhiệm mới khi nhiều lực lượng Hoa Kỳ hơn bắt đầu rút quân. Thật không may, những chương trình này không thể loại bỏ nhiều vấn đề lâu đời ám ảnh QLVNCH và cuối cùng sẽ góp phần vào sự sụp đổ của chế độ Nam Việt Nam. QLVNCH mở rộng đã phải chịu đựng tình trạng thiếu năng lực kỹ thuật, sĩ quan tham mưu yếu kém, thiếu kinh nghiệm trong việc lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động vũ trang kết hợp quy mô lớn và một số căn bệnh nghiêm trọng khác. Lãnh đạo, đặc biệt là ở cấp cao, là gốc rễ của mọi điểm yếu của QLVNCH. Như một cựu tướng lĩnh Nam Việt Nam đã viết sau chiến tranh, “Trừ khi một chỉ huy hoặc nhà lãnh đạo có năng lực chuyên môn, lòng tận tụy và tính ngay thẳng về mặt đạo đức, thì chắc chắn ông ta không thể mong đợi cấp dưới của mình tận tụy và quyết chiến. . . . Cuối cùng đã có ý chí và quyết tâm chiến đấu, một lần nữa phụ thuộc vào động lực và sự lãnh đạo, và nếu không có chúng thì không có ý nghĩa gì trong việc nâng cấp các khả năng vật chất đơn thuần.” Vấn đề này khiến Tướng Abrams và các chỉ huy cấp cao của ông rất lo ngại khi họ cố gắng chuẩn bị cho Nam Việt Nam đảm nhận trách nhiệm cho cuộc chiến. Các chương trình như “Cặp đôi ” và “Đồng Tiến” được thiết kế để giúp tăng cường khả năng lãnh đạo và kỹ năng chiến đấu của QLVNCH, nhưng chúng không thể sửa chữa hoàn toàn những căn bệnh lâu dài trong hệ thống Nam Việt Nam.
 
Mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn và lo ngại, Việt Nam hóa đã đạt được tiến triển trong một số lĩnh vực vào cuối năm 1969. Nhờ nỗ lực hiện đại hóa, tất cả các đơn vị QĐVNCH đều được trang bị súng trường M-16, thay thế cho các loại M-1 cũ hơn, nặng hơn, và đã được trang bị súng phóng lựu M-79 và súng máy M-60. Việc tái bố trí quân đội Hoa Kỳ đã buộc QLVNCH phải gánh vác nhiều trách nhiệm hơn trong cuộc chiến, vì số lượng các hoạt động quy mô tiểu đoàn do Nam Việt Nam tiến hành gần như tăng gấp đôi từ năm 1968 đến năm 1969. Dù vậy hiệu suất tác chiến của binh lính miền Nam không đồng đều.  Một số đơn vị, như Tiểu đoàn Bộ binh 51 QLVNCH, đã chiến đấu rất ngang ngửa với đối thủ Cộng sản của họ, trong khi những đơn vị khác, như Sư đoàn Bộ binh 22, phần lớn không hiệu quả trên chiến trường (Sư đoàn 22 đã tiến hành 1.800 cuộc phục kích trong những tháng mùa hè năm 1969 và chỉ giết được 6 tên địch).
 
Văn phòng Thông tin của MACV đã công khai sự tham gia ngày càng tăng của QLVNCH, nhấn mạnh rằng theo thời gian, lực lượng miền Nam sẽ có thể tự mình đứng vững. Bất chấp những tuyên bố này, nhiều cố vấn vẫn cảm thấy người miền Nam vẫn quá phụ thuộc vào sự hỗ trợ của lực lượng Hoa Kỳ và lo lắng về khả năng tự mình gánh vác chiến tranh sau khi người Mỹ rút lui. Các tuyên bố quan hệ công chúng của MACV đúng theo một nghĩa nào đó—rõ ràng là cần phải có thời gian trước khi Nam Việt Nam có thể tự mình đứng vững trước Bắc Việt.  Câu hỏi chính đối với nhiều người là có đủ thời gian trước khi tất cả các đơn vị Hoa Kỳ đã rút lui hay không.


BÌNH ĐỊNH HÓA
 Trong khi lực lượng chính quy Nam Việt Nam đấu tranh để đảm nhận nhiều trách nhiệm hơn cho cuộc chiến chống lại Cộng sản trên chiến trường, nỗ lực bình định, một phần đồng hành của chính sách Việt Nam hóa của Nixon, vẫn tiếp tục trong cuộc chiến giành “trái tim và khối óc” của người dân miền Nam. Việc đặt trọng tâm vào công tác bình định thực sự đã diễn ra trước khi chương trình Việt Nam hóa được khởi xướng. Nền tảng ban đầu cho nỗ lực này đã được đặt ra vào năm 1967 với sự phát triển của chương trình Hoạt động Dân sự và Hỗ trợ Phát triển Nông thôn (CORDS) do Robert W. Komer đứng đầu. Theo truyền thống, chương trình này bị xếp sau cuộc chiến “lớn hơn” trên chiến trường giữa các đơn vị chiến đấu Hoa Kỳ và lực lượng VC và BV. Cú sốc của cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 của Cộng sản làm nổi bật nhu cầu tăng cường các nguồn lực và nỗ lực bình định vùng nông thôn. Người kế nhiệm Komer, William E. Colby, sau đó đã viết rằng Hoa Kỳ “cuối cùng đã phát hiện ra rằng yếu tố chính của cuộc chiến là cuộc chiến ở làng mạc, chứ không phải là cuộc chiến giữa các tiểu đoàn.”
 
Trong cuộc tấn công của Cộng sản năm 1968, tất cả các lực lượng đã được giao phó tham gia chương trình bình định phải được tái bố trí để bảo vệ các thủ phủ tỉnh và thị trấn huyện. Khi cuộc tấn công của địch kết thúc, chính quyền Sài Gòn một lần nữa chuyển sự chú ý của mình sang việc bảo vệ các vùng nông thôn. Vì vậy, một “Chiến dịch bình định tăng tốc” đặc biệt kéo dài ba tháng đã được phát động vào tháng 11 năm 1968 để “sử dụng phối hợp và đồng bộ tất cả các nguồn lực quân sự, chính quyền và cảnh sát nhằm mang lại an ninh tối đa cho các vùng nông thôn.” Vì chiến dịch ngắn ngủi này đã thành công trên hầu hết các lĩnh vực, nên chính quyền Sài Gòn và các viên chức Hoa Kỳ đã lập ra Kế hoạch Phát triển và Bình định năm 1969 để tận dụng những tiến bộ đã đạt được trong nỗ lực trước đó.
 
Theo Tướng Abrams, chìa khóa của công cuộc bình định là “cung cấp an ninh có ý nghĩa và liên tục cho người dân Việt Nam”  Kế hoạch bình định mới, hay Chiến dịch Đặc biệt như người miền Nam gọi, trước tiên là mở rộng các khu vực an toàn; giai đoạn thứ hai kêu gọi chính quyền miền Nam thực hiện các biện pháp để phát triển các vùng nông thôn, duy trì luật pháp và trật tự, và xây dựng nền kinh tế địa phương. Do đó, an ninh đã trở thành trọng tâm ban đầu của nỗ lực bình định; nếu không có một môi trường an toàn, tất cả các chương trình khác đều sẽ thất bại.
 
Hai yếu tố quan trọng tạo tiền đề cho thành công hơn nữa của Sài Gòn trong nỗ lực bình định, đặc biệt là liên quan đến việc cải thiện tình hình an ninh nông thôn.  Đầu tiên, lực lượng Cộng sản, vẫn đang chịu ảnh hưởng của các trận chiến năm 1968, không đủ sức mạnh để chống lại những nỗ lực mới của chính quyền Sài Gòn ở các vùng nông thôn, ít nhất là trong nửa cuối năm 1969. Điểm yếu tạm thời của địch đã tăng cường đáng kể cơ hội giành được lợi thế của Sài Gòn. Thứ hai, Lực lượng Nhân dân Tự về (NDTV) đã tăng cường sức mạnh và tiếng tăm. Được tổ chức trước năm 1968 để cung cấp một cấu trúc cho hoạt động tự vệ tại địa phương, lực lượng này đã suy yếu vì thiếu sự tham gia ở cấp thôn và làng. Thật trớ trêu thay, NDTV đã nhận được sự hỗ trợ đáng kể từ sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Nhiều dân làng miền Nam, những người trước đây chỉ nhận thức mơ hồ về việc tham gia cuộc chiến chống lại Cộng sản của Sài Gòn, đã bị sốc trước những gì họ coi là hành động thái quá của người Cộng sản trong các cuộc tấn công năm 1968 nên giờ đây tham gia NDTV, cầm vũ khí để bảo vệ thị trấn, làng mạc và thôn xóm của mình. Đến cuối năm 1969, hơn ba triệu thành viên đã tình nguyện tham gia NDTV .Vì vậy, như cựu tướng lĩnh Nguyễn Duy Hinh khẳng định, phong trào NDTV đã thành công trong việc tập hợp quần chúng ủng hộ nỗ lực bình định của Sài Gòn và đóng góp rất lớn vào việc duy trì an ninh địa phương.
 
Khi an ninh được tăng cường, những dân làng trước đây đã bỏ nhà cửa để thoát khỏi vùng giao tranh bắt đầu trở về. Nhờ đó, các khu vực đông dân và an toàn do Sài Gòn kiểm soát bắt đầu mở rộng nhanh chóng. Đến năm 1971, khoảng 2 triệu người tị nạn đã trở về làng quê của mình hoặc được tái định cư ở nơi khác với sự hỗ trợ của chính phủ; con số này bao gồm 200.000 người Việt đã chạy trốn khỏi Campuchia.
 
 Đại sứ Ellsworth Bunker đã viết thư cho Tổng thống Nixon rằng chương trình bình định đã phát triển mạnh mẽ vào năm 1969 vì Tổng thống Thiệu, lần đầu tiên, đã quan tâm đến chương trình này. Có mọi dấu hiệu cho thấy đánh giá của Bunker là đúng. Thiệu chủ trì Hội đồng Phát triển và Bình định Trung ương, cơ quan chịu trách nhiệm điều phối các hoạt động bình định, và đã trực tiếp  tham gia vào việc phát triển các mục tiêu cho Chiến dịch Đặc biệt. Dưới sự chỉ đạo của ông, chương trình tập trung vào thôn làng. Trong nỗ lực trả lại quyền kiểm soát địa phương cho làng xã, chính quyền Thiệu đã cho phép dân làng tự chọn hội đồng làng của riêng mình, sau đó bầu ra trưởng làng. Vào tháng 4 năm 1969, Thiệu đã trao cho các hội đồng quyền kiểm soát lực lượng an ninh địa phương, và trong một động thái chưa từng có, các hội đồng làng đã tiếp quản quyền kiểm soát các quỹ phát triển của làng.  Thiệu cũng thành lập một trung tâm đào tạo đặc biệt cho các viên chức làng xã, và cuối cùng khoảng 17.000 nhà lãnh đạo nông thôn đã tốt nghiệp.
 
Nhờ những bước tiến trong việc bảo vệ vùng nông thôn và động lực do Tổng thống Thiệu tạo ra, chương trình bình định đã đạt được những tiến bộ to lớn vào năm 1969. Đến cuối năm, 90 phần trăm các làng thôn ở miền Nam  được đánh giá là an toàn hoặc tương đối an toàn; thêm năm triệu người về sống ở các khu vực an toàn do chính phủ kiểm soát so với năm 1967; và 92 phần trăm dân số sống ở các khu vực an toàn hoặc tương đối an toàn. Trong khi những con số này, giống như nhiều số liệu thống kê được sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam, có thể bị nghi ngờ, các tài liệu tich thu được của Cộng sản chứng thực cho sự thành công của chương trình bình định vào năm 1969. Cuối năm đó, Văn phòng Trung ương cục Miền Nam, bộ chỉ huy cấp cao của Cộng sản nằm gần biên giới Campuchia, phía tây bắc Sài Gòn đã báo cáo, “Tóm lại, chiến dịch Mùa thu đã không đạt được kết quả như kế hoạch… Kẻ thù… đã hoàn thành được những yêu cầu cấp bách nhất của mình, đặc biệt là những yêu cầu về chương trình bình định nông thôn của mình. . . ”
 
Thành công trong chương trình bình định đã cải thiện đáng kể quá trình Việt Nam hóa tổng thể. Các khu vực địa phương an toàn có nghĩa là quân đội chính quy miền Nam có thể được triển khai để chiến đấu với các đơn vị chủ lực của Bắc Việt và Việt Cộng. Những tác động quan trọng khác bao gồm, cụ thể là, tinh thần của người dân được nâng cao, mạng lưới đường bộ an toàn hơn và dân số nông thôn theo về với chính quyền Thiệu ở Sài Gòn đông hơn.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến