BỎ RƠI VIỆT NAM:-3-MIDWAY, GUAM VÀ HỌC THUYẾT NIXON

 
BỎ RƠI VIỆT NAM
3-MIDWAY, GUAM VÀ HỌC THUYẾT NIXON

Vào ngày 8 tháng 6 năm 1969, Tổng thống Nixon đã gặp tổng thống Nam Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu tại Midway và lần đầu tiên công khai tuyên bố chính sách mới của Hoa Kỳ là “Việt Nam hóa”. Nixon tuyên bố rằng sẽ có một sự tăng cường và cải thiện ổn định các lực lượng và thể chế của Nam Việt Nam, kèm theo đó là gia tăng áp lực quân sự lên kẻ thù, trong khi quân đội Hoa Kỳ dần dần rút lui.  Mục tiêu cuối cùng là tăng cường năng lực của QĐNDVN và củng cố chính quyền Thiệu để người miền Nam có thể tự mình chống lại Cộng sản. Nixon tuyên bố rằng ông sẽ rút 25.000 quân và sau đó sẽ rút thêm theo “các khoảng thời gian đều đặn”. Theo tổng thống, việc rút quân của Hoa Kỳ phụ thuộc vào ba yếu tố: (1) tiến độ huấn luyện và trang bị cho lực lượng Nam Việt Nam, (2) tiến độ đàm phán Paris và (3) mức độ hoạt động của kẻ thù.  Sau đó, Nixon tuyên bố trong hồi ký của mình rằng thông báo Midway đã khởi xướng “một quá trình không thể đảo ngược, kết thúc của quá trình này sẽ là sự ra đi của tất cả người Mỹ khỏi Việt Nam”.
 
Về mặt cá nhân, Tổng thống Thiệu không hài lòng với thông báo của tổng thống Hoa Kỳ. Theo Nixon, Thiệu nhận ra rằng việc Hoa Kỳ rút quân có nghĩa là gì và “rất lo lắng” về những hàm ý của việc người Mỹ rút khỏi cuộc chiến, nhưng sau này Nixon tuyên bố rằng ông đã đảm bảo riêng với Thiệu  thông qua Đại sứ Ellsworth Bunker rằng “sự ủng hộ của chúng tôi dành cho ông ấy là kiên định”.
 
Bất chấp những lo ngại của người miền Nam  về chính sách mới, Henry Kissinger đã ghi lại rằng “Nixon đã hân hoan. Ông coi thông báo [về Việt Nam hóa] là một chiến thắng chính trị. Ông nghĩ rằng nó sẽ giúp ông có thời gian cần thiết để phát triển chiến lược của chúng tôi”. Một bản ghi nhớ sau đó tiết lộ rằng Nixon hy vọng rằng chính sách mới của ông về Việt Nam hóa chiến tranh sẽ chứng minh với người dân Mỹ rằng ông “đã loại bỏ  vấn đề Nam Việt Nam và thực sự có kế hoạch chấm dứt chiến tranh”.
 
Để củng cố chiến lược mới, Nixon đã gặp Laird và Tướng Wheeler khi ông trở về từ Midway để thảo luận về việc thay đổi nhiệm vụ chính thức cho Tướng Abrams và MACV. Tuyên bố nhiệm vụ hiện tại, do Tổng thống Johnson ban hành, là “đánh bại” kẻ thù và “buộc” kẻ thù phải rút khỏi Nam Việt Nam. Kết quả của các cuộc thảo luận sau thông báo Midway, một lệnh mới có hiệu lực vào ngày 15 tháng 8 giao cho Abrams (1) cung cấp “hỗ trợ tối đa” để tăng cường lực lượng vũ trang của Nam Việt Nam, (2) tăng cường hỗ trợ cho nỗ lực bình định, và (3) giảm dòng tiếp tế của kẻ thù trên Đường mòn Hồ Chí Minh.  Với lệnh này, toàn bộ động lực của các nỗ lực của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam đã thay đổi, như sẽ được thảo luận chi tiết sau.
 
Vào ngày 25 tháng 7 năm 1969, Tổng thống Nixon đã đến thăm Guam trong khuôn khổ chuyến công du Châu Á. Trong một cuộc họp báo tại đó, ông đã công bố một chính sách đối ngoại mới cho Hoa Kỳ. Ông tuyên bố rằng “đối với các vấn đề về quốc phòng quân sự, ngoại trừ mối đe dọa từ một cường quốc liên quan đến vũ khí hạt nhân, Hoa Kỳ sẽ khuyến khích và có quyền mong đợi rằng vấn đề này sẽ ngày càng được xử lý bởi, và trách nhiệm đối với nó do, các quốc gia Châu Á tự mình đảm nhận.” Chính sách mới của ông, thực chất chỉ là một ứng dụng mở rộng hơn của khái niệm Việt Nam hóa, nhanh chóng được gọi là “Học thuyết Guam”. Tuy nhiên, theo Henry Kissinger, tổng thống đã nỗ lực hết sức để báo chí mô tả nó là “Học thuyết Nixon”.  Học thuyết mới của Nixon dựa trên ba nguyên tắc cơ bản: sẵn sàng đàm phán, sức mạnh quân sự và quan hệ đối tác. Ông khẳng định rằng Đông và Tây nên tìm cách chung sống với nhau và mối quan hệ giữa phương Tây và các nước Cộng sản nên được mở ra và duy trì để đạt được một nền hòa bình lâu dài. Theo đó, Nixon tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tôn trọng các cam kết của mình, nhưng các đối tác của mình sẽ phải gánh vác phần trách nhiệm của họ. Như Bộ trưởng Quốc phòng Laird đã nói, “Trong khi vai trò chính của Hoa Kỳ vẫn là không thể thiếu, các quốc gia khác có thể và nên đảm nhận những trách nhiệm lớn hơn”.
 
Chương trình Việt Nam hóa phù hợp với Học thuyết Nixon. Theo nhà sử học Joan Hoff, học thuyết mới này nhắm vào các quốc gia thế giới thứ ba “phía nam” ở Đông Á và cung cấp “về cơ bản lý do để cắt giảm quân số, nhưng nó đã trở thành thể chế chính thức của Việt Nam hóa”.
 
Hoa Kỳ đã chuẩn bị cung cấp viện trợ và hỗ trợ cho Nam Việt Nam để các lực lượng miền Nam cuối cùng có thể tiếp quản cuộc chiến và quân đội Hoa Kỳ có thể rút lui.  Chính quyền tin rằng việc giúp Nam Việt Nam tự đứng vững sẽ cung cấp thêm bằng chứng cho thấy Hoa Kỳ luôn tôn trọng các cam kết của mình với bạn bè và đồng minh, và có thể làm việc tốt để phát triển lòng tự tin, tự lực và hợp tác trong khu vực ngay cả sau khi quân đội Hoa Kỳ đã rút lui. Do đó, Việt Nam hóa được hình thành đã cung cấp bước đầu tiên trong việc thực hiện Học thuyết Nixon. Nixon rõ ràng cảm thấy rằng cách kết thúc chiến tranh ở Việt Nam sẽ có tác động lâu dài đến các sáng kiến ​​chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong tương lai.
 
Vào ngày 30 tháng 7, trên đường trở về sau chuyến công du Châu Á, Nixon đã bất ngờ dừng chân tại Sài Gòn. Không có thông báo chính thức nào được đưa ra trước khi dừng chân, và Nixon được trực thăng đưa thẳng đến Dinh Độc Lập để gặp Thiệu. Tại đó, ông nói với tổng thống miền Nam rằng Hoa Kỳ sẽ không bỏ rơi đất nước của ông ta và việc rút quân là cần thiết để duy trì sự ủng hộ của công chúng Hoa Kỳ, đồng thời hứa rằng việc rút quân sẽ được thực hiện theo một “lịch trình có hệ thống”.
 
Sau khi tìm cách trấn an người miền Nam, Nixon sau đó chuẩn bị giải thích kế hoạch của mình với công chúng Mỹ. Trong bài phát biểu trên truyền hình toàn quốc vào ngày 3 tháng 11 năm 1969, Nixon đã mô tả chính sách mới của mình với người dân Mỹ. Ông nói, “Chúng ta đã thông qua một kế hoạch mà chúng ta đã xây dựng với sự hợp tác với người Nam Việt Nam để rút toàn bộ lực lượng bộ binh chiến đấu của Hoa Kỳ và thay thế bằng lực lượng Nam Việt Nam theo một thời gian biểu có trật tự. Cuộc rút quân này sẽ được thực hiện từ thế mạnh chứ không phải từ thế yếu.” Ông giải thích thêm, “Việc rút quân đột ngột toàn bộ lực lượng Hoa Kỳ khỏi Việt Nam sẽ là một thảm họa, không chỉ đối với Nam Việt Nam mà còn đối với Hoa Kỳ và mục đích hòa bình. Cuối cùng, điều này sẽ phải trả giá bằng mạng sống, điều này sẽ không mang lại hòa bình mà còn gây ra nhiều chiến tranh hơn.”
 
Do đó, Việt Nam hóa đã trở thành một phương cách để Nixon giảm bớt áp lực đối với chính quyền mới của mình yêu cầu rút quân hoàn toàn, tạo thêm thời gian để theo đuổi một nền hòa bình được đàm phán trong khi tiếp tục củng cố lực lượng Nam Việt Nam. Như Henry Kissinger đã mô tả, đó là “một kế hoạch chấm dứt chiến tranh” được thiết kế để cung cấp cho Hoa Kỳ “một viễn cảnh về sự rút quân danh dự mà không phải là vật thế chấp  cho sự hợp tác của bên kia”.
 
Theo thời gian, Việt Nam hóa đã trở thành một phần của một chiến lược rộng lớn hơn mà sau này Nixon mô tả là “một phần trong kế hoạch tổng thể của ông nhằm chấm dứt chiến tranh”. Kế hoạch của Nixon bao gồm các mục tiêu sau:
 
Đảo ngược quá trình “Mỹ hóa” cuộc chiến đã diễn ra từ năm 1965 đến1968 và thay vào đó tập trung vào Việt Nam hóa.
Ưu tiên hơn cho việc bình định để Nam Việt Nam có thể mở rộng quyền kiểm soát của mình đối với vùng nông thôn.
Giảm mối đe dọa xâm lược bằng cách phá hủy các khu căn cứ địa và tuyến tiếp tế của kẻ thù ở Campuchia và Lào.
Rút nửa triệu quân Mỹ khỏi Việt Nam theo cách không gây ra sự sụp đổ ở miền Nam.
Đàm phán lệnh ngừng bắn và hiệp ước hòa bình.
Thể hiện thiện chí và quyết tâm sát cánh cùng đồng minh của chúng ta nếu hiệp định hòa bình bị Hà Nội vi phạm, và đảm bảo với Nam Việt Nam rằng họ sẽ tiếp tục nhận được viện trợ quân sự của chúng ta như Hà Nội đã nhận được từ các đồng minh của mình, Liên Xô và, ở mức độ thấp hơn, Trung Quốc.
Nixon và các cố vấn của ông lạc quan nhận thấy rằng Việt Nam hóa có thể mang lại lợi ích bổ sung là kết thúc chiến tranh nhanh hơn. Bên cạnh việc tăng cường lực lượng của Thiệu để họ có thể đảm nhận nhiều trách nhiệm hơn đối với cuộc chiến, chính sách này cũng có thể khuyến khích Bắc Việt dễ tiếp nhận hơn đối với một nền hòa bình được đàm phán.  Theo Nixon, “Nếu kẻ thù cảm thấy rằng chúng ta sẽ ở lại đó đủ lâu để miền Nam đủ mạnh có thể tự bảo vệ mình, thì tôi nghĩ họ có động lực thực sự để đàm phán, bởi vì nếu họ phải đàm phán với một chính phủ Nam Việt Nam mạnh mẽ, năng nổ, thì thỏa thuận mà họ đạt được với miền Nam sẽ không tốt bằng thỏa thuận mà họ có thể đạt được hiện nay”.
 
Sự ủng hộ của công chúng đối với Việt Nam hóa ban đầu là cực kỳ tích cực. Nhiều người Mỹ phản ứng rất tích cực với chính sách mới, hy vọng rằng việc rút quân ban đầu của 25.000 quân là bước mở đầu cho việc rút quân hoàn toàn của tất cả các lực lượng Hoa Kỳ khỏi Nam Việt Nam. Nhiều người trong báo chí Mỹ cũng đã được khuyến khích bởi sự thay đổi chiến lược của Nixon, và trong khi một số chuyên mục như Rowland Evans và Robert Novak lo ngại về khả năng của Nam Việt Nam trong việc tiếp quản nỗ lực chiến tranh, thì các báo cáo và bình luận của phương tiện truyền thông trước và ngay sau thông báo về chiến lược mới của Nixon nói chung là có lợi. Sự ủng hộ như vậy sẽ không kéo dài.
 
TIỀN THÂN CỦA VIỆC VIỆT NAM HÓA
Bất chấp lời lẽ ngược lại của Nixon, cái mà ông gọi là “Việt Nam hóa” không phải là một ý tưởng hoàn toàn mới. Lần đầu tiên nó được thảo luận vào năm 1967 sau gần ba năm Hoa Kỳ tham gia chiến đấu toàn diện ở Nam Việt Nam. Tướng Westmoreland, khi đó là chỉ huy MACV, đã phát biểu vào tháng 11 năm 1967 trong một bài nói chuyện tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia về việc dần dần chuyển giao cuộc chiến cho Nam Việt Nam.  Ông cho biết vào năm 1968, Hoa Kỳ sẽ thực hiện “Giai đoạn III” của chiến lược chiến tranh, bao gồm việc nâng cấp lực lượng Địa phương quán và Dân quân, cung cấp cho QĐVNCH các thiết bị mới để sẵn sàng “tiếp quản phần vụ ngày càng tăng của cuộc chiến” và chuyển giao “một phần lớn” tuyến phòng thủ tiền tuyến DMZ (Khu Phi Quân sự) cho các lực lượng Nam Việt Nam. Ông nói thêm rằng trong “Giai đoạn IV”, các lực lượng Hoa Kỳ có thể “bắt đầu giảm dần” khi quân miền Nam phát triển năng lực của mình và bắt đầu “chịu trách nhiệm rốt ráo về hoạt động càn quét Việt Cộng” và “cho thấy rằng họ có thể xử lý được Việt Cộng”.
 
Mục tiêu của kế hoạch này là nâng cấp các lực lượng Nam Việt Nam để họ có thể xử lý cuộc nổi dậy liên tục của Việt Cộng sau khi các lực lượng Hoa Kỳ rời đi. Tuy nhiên, kế hoạch không nghĩ đến việc các lực lượng vũ trang Nam Việt Nam sẽ có thể đối phó với quân đội chính quy Bắc Việt.
 
 Các biện pháp theo kế hoạch này đã được khởi xướng khi Nixon nhậm chức. Vì vậy, vào thời điểm Nixon, Laird và Kissinger xây dựng chiến lược mới của họ để chấm dứt chiến tranh, các thành phần chiến lược đã có sẵn và quá trình này đang diễn ra. Cựu tướng lĩnh VNCH Nguyễn Duy Hinh đã cho rằng sự phát triển đáng kể của QLVNCH trong năm trước khi Nixon nhậm chức có thể là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến suy nghĩ của tổng thống mới khi ông cân nhắc các cách chấm dứt chiến tranh cho người Mỹ.
 
Tuy nhiên, có một sự khác biệt chính giữa các kế hoạch mà Westmoreland khởi xướng  và các kế hoạch do Nixon ra lệnh: theo kế hoạch của Nixon và Laird, người miền Nam sẽ được kỳ vọng chiến đấu với cả Việt Cộng và Quân Bắc Việt sau khi quân đội Hoa Kỳ rút lui. Sự khác biệt sẽ chứng minh là quan trọng trong giai đoạn giữa thời điểm khởi xướng chính sách và thất bại cuối cùng của Nam Việt Nam vào năm 1975.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến