BỎ RƠI VIỆT NAM:-2-NIXON NHẬN NHIỆM VỤ

 
BỎ RƠI VIỆT NAM
2-NIXON NHẬN NHIỆM VỤ

Vào ngày 20 tháng 1 năm 1969, Richard Milhous Nixon đã tuyên thệ nhậm chức tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ.  Trong bài phát biểu nhậm chức của mình, ông đã nhắc lại mong muốn đạt được một giải pháp hòa bình tại Việt Nam, nhưng cũng nêu rõ quyết tâm đưa cuộc chiến này đến hồi kết trong danh dự. Nixon đã cảnh báo rằng “Đối với tất cả những ai bị cám dỗ bởi sự yếu đuối, chúng ta hãy chắc chắn rằng chúng ta sẽ cần phải mạnh mẽ khi cần thiết”.
 
Vào ngày đầu tiên nhậm chức, Nixon đã bắt tay vào công việc. Ông đã ban hành Bản ghi nhớ Nghiên cứu An ninh Quốc gia 1 (NSSM 1), có tiêu đề “Tình hình tại Việt Nam”. Tài liệu dài 6 trang, cách đơn, được gửi đến các thành viên được chọn của chính quyền mới, yêu cầu trả lời 29 câu hỏi chính và 50 câu hỏi phụ về tình hình ở Đông Nam Á.  Trong số những người nhận được bản ghi nhớ có Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Cơ quan Tình báo Trung ương, Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn và Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV), cũng ở Sài Gòn. Các câu hỏi bao gồm sáu loại chính: các cuộc đàm phán (câu hỏi 1–4), tình hình của kẻ thù (5–10), tình trạng của các lực lượng vũ trang Nam Việt Nam (11–13), tình trạng của nỗ lực bình định (14–20), tình hình chính trị ở Nam Việt Nam (21–23) và các mục tiêu của Hoa Kỳ (24–29).
 
NSSM 1 là nỗ lực của Nixon nhằm đưa ra một số chiến lược khả thi bằng cách tìm kiếm các quan điểm khác nhau sẽ đưa ra ước tính toàn diện về tình hình ở Nam Việt Nam.  Theo Henry Kissinger, bản ghi nhớ được thiết kế “để làm sâu sắc thêm bất kỳ sự bất đồng nào để chúng ta có thể xác định rõ các  câu hỏi gây tranh cãi và các quan điểm khác nhau.”  Trọng tâm của các câu hỏi chỉ ra một số mối quan tâm chính của tổng thống mới: khả năng tồn tại của chính quyền Thiệu và khả năng của Nam Việt Nam trong việc tiếp tục cuộc chiến sau bất kỳ cuộc rút quân nào của Hoa Kỳ. Nguồn gốc của những mối quan tâm này là một đánh giá tình báo mà Nixon đã đọc vào tháng 12 trước khi nhậm chức; trong báo cáo này, CIA đã chỉ trích rất nhiều chính quyền Thiệu và khả năng của lực lượng vũ trang Nam Việt Nam.
 
Nhà sử học William M. Hammond cho rằng những lo lắng của Nixon về khả năng của Nam Việt Nam thậm chí còn tăng lên hơn nữa khi, ngay sau khi NSSM 1 được ban hành, tổng thống mới có dịp xem qua bài viết “Việt Nam có nguồn lực nhưng thiếu động lực để giành chiến thắng”, một bản ghi nhớ chưa ký tên được cho là do một người miền Nam hiểu biết biên soạn. Tác giả của tài liệu khẳng định rằng các vấn đề của Nam Việt Nam nghiêm trọng đến mức nó không bao giờ có thể sống còn nếu Hoa Kỳ rút quân quá nhanh khỏi cuộc chiến và người Mỹ sẽ phải ngưng các lịch trình rút quân và tiếp tục đảm bảo sự toàn vẹn của Nam Việt Nam cho đến khi quốc gia đó có thể tự đứng vững.
 
Đối mặt với những đánh giá bi quan trong cả báo cáo của CIA và bản ghi nhớ chưa ký, Nixon muốn có được bức tranh rõ ràng hơn về tình hình ở Đông Nam Á. NSSM 1 được thiết kế để thực hiện chính xác điều đó.
 
Nếu Nixon muốn có những quan điểm và ý kiến ​​khác nhau về cuộc chiến, ông chắc chắn đã có được chúng trong nhiều phản hồi khác nhau cho những gì được chính quyền gọi là “29 câu hỏi”. Kissinger và nhân viên của ông đã tóm tắt các phản hồi cho NSSM 1 trong một bài báo dài bốn mươi bốn trang được gửi đến Nhóm đánh giá của Hội đồng An ninh Quốc gia vào ngày 14 tháng 3 năm 1969.  Báo cáo này cho thấy sự đồng thuận chung giữa hầu hết những người cho rằng Việt Nam Cộng hòa không thể trong tương lai gần chống lại cả Việt Cộng và Quân Bắc Việt. Tương tự như vậy, hầu hết những người trả lời đều đồng ý rằng Chính quyền miền Nam khó có thể chống lại được cuộc tranh chấp chính trị nghiêm trọng từ Mặt trận Giải phóng (MTGP). Họ cũng đồng ý rằng kẻ thù, mặc dù đã suy yếu nghiêm trọng do tổn thất trong cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân, vẫn là một lực lượng hùng hậu và có khả năng được cải tạo và tăng cường từ Bắc Việt.
 
Mặc dù có những đánh giá tương tự về tương lai ngắn hạn ở Việt Nam, những người trả lời NSSM 1 lại không đồng tình mạnh mẽ ở những khía cạnh khác.  Những phản ứng trái ngược nhau phản ánh hai trường phái tư tưởng, khác nhau chủ yếu về đánh giá tiến độ đạt được cho đến thời điểm đó và dự báo dài hạn cho tình hình ở Đông Nam Á. Trường phái tư tưởng lạc quan hơn, được đại diện tốt nhất bởi phản ứng của MACV và được chia sẻ bởi Đại sứ Ellsworth Bunker tại Sài Gòn, Tổng tham mưu trưởng tại Lầu Năm Góc và Đô đốc John S. McCain Jr. (tổng tư lệnh Lực lượng Thái Bình Dương của Hoa Kỳ), cho rằng Bắc Việt đã đồng ý tham gia các cuộc đàm phán hòa bình tại Paris vì sự yếu kém về quân sự của họ, rằng những thành quả bình định là có thật và “sẽ được duy trì”, và rằng “xu hướng đang thuận lợi”.
 
Tướng Creighton W. Abrams Jr., người kế nhiệm Tướng William C. Westmoreland vào tháng 7 năm 1968 làm tư lệnh MACV, đã chuyển NSSM 1 xuống từng cố vấn cấp cao của quân đoàn để họ trả lời (Nam Việt Nam được chia thành bốn vùng chiến thuật quân đoàn (sau này được gọi là Quân Khu), mỗi vùng có một sĩ quan cấp tướng Hoa Kỳ làm chỉ huy tác chiến của lực lượng Hoa Kỳ, đồng thời cũng là cố vấn cấp cao cho tư lệnh quân đoàn miền Nam). Các câu trả lời từ các cố vấn cấp cao của quân đoàn rất khác nhau, nhưng nhìn chung họ đều có cùng quan điểm với Trung tướng Richard G. Stilwell, Vùng Chiến thuật Quân đoàn I ở phía bắc, ông viết rằng “đã có những bước tiến đáng kể trong việc cải thiện lực lượng QĐVNCH [trong năm 1968].” Người duy nhất phản đối trong số các cố vấn cấp cao của quân đoàn là Trung tướng Walter T. Kerwin Jr., từ Vùng Chiến thuật Quân đoàn III (mười một tỉnh bao quanh Sài Gòn), ông báo cáo mình  “không thấy có sự cải thiện đáng kể” nào của lực lượng Nam Việt Nam tại Quân đoàn III trong năm 1968 và chỉ đánh giá một phần ba số tiểu đoàn cơ động trong khu vực là “hiệu quả”.   Bất chấp những lo ngại của Kerwin, ông và các cố vấn cấp cao khác của quân đoàn đều nhất trí về một khía cạnh: tất cả họ đều đồng ý rằng Nam Việt Nam, sau khi tăng cường đầy đủ, sẽ có thể “kiềm chế” được mối đe dọa của Việt Cộng. Kerwin, mặc dù đồng ý về nguyên tắc với các đồng nghiệp của mình, đã hạn chế sự đồng tình của mình, nói rằng ông tin cần phải tiếp tục có sự hỗ trợ của không quân và pháo binh Hoa Kỳ để quân miền Nam có thể giành chiến thắng, ngay cả trước Việt Cộng. Mặc dù các cố vấn cấp cao đồng ý rằng các lực lượng miền Nam cuối cùng sẽ có thể xử lý được cuộc nổi dậy của VC đang diễn ra, nhưng họ cũng nhất trí không tin Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) có thể chống lại được cuộc tấn công kết hợp của VC và Bắc Việt nếu không có sự hỗ trợ và giúp đỡ liên tục của Hoa Kỳ.
 
 Ban tham mưu của Tướng Abrams tại MACV đã tổng hợp các bình luận của các cố vấn cấp cao quân đoàn vào phản hồi của mình với tổng thống về NSSM 1. Nhiều bình luận bi quan, bao gồm cả đánh giá chỉ trích của Kerwin, đã bị bỏ qua hoặc ít nhất là bị hạ thấp trong đánh giá cuối cùng của MACV. Phần lớn báo cáo cuối cùng dựa trên việc nêu lại các chỉ số thống kê đã nộp trước đó về thành công trong việc nâng cấp lực lượng Sài Gòn. Tuy nhiên, báo cáo của MACV, trong đó nhấn mạnh đến nhu cầu tiếp tục hỗ trợ trên không và trên bộ của Hoa Kỳ cho Nam Việt Nam, không hoàn toàn lạc quan.  Mặc dù báo cáo nhấn mạnh rằng đã có những tiến bộ đáng kể trong việc hiện đại hóa quân miền Nam, Abrams vẫn đồng tình với ý kiến ​​của các cố vấn cấp cao trong quân đoàn của mình, cảnh báo rằng QLVNCH đơn giản là không có khả năng đạt được mức độ tự cung tự cấp và sức mạnh áp đảo cần thiết để chống lại cuộc nổi dậy kết hợp của Việt Cộng và các cuộc tấn công của lực lượng chủ lực Bắc Việt.”
 
Theo đó, Abrams nhấn mạnh rằng bất kỳ cuộc rút quân nào của Hoa Kỳ được đề xuất phải đi kèm với một cuộc rút quân tương tự của Bắc Việt. Mặc dù Abrams sẽ liên tục nhấn mạnh điểm này trong nhiều lần sau đó, nhưng cuối cùng những lời cảnh báo của ông đã bị bỏ ngoài tai khi so sánh với sự cần thiết về mặt chính trị là phải đưa quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Nam Việt Nam, có hoặc không có sự rút quân của Bắc Việt.
 
Khác biệt mạnh mẽ với các khía cạnh lạc quan trong phản ứng của MACV đối với NSSM 1 là các báo cáo của Cơ quan Tình báo Trung ương, nhân viên dân sự trong Bộ Quốc phòng và ở mức độ thấp hơn là Bộ Ngoại giao. Các báo cáo của họ chỉ trích gay gắt năng lực quân sự của Sài Gòn và khẳng định rằng những cải thiện nhỏ trong QLVNCH “về cơ bản đã gây ra sự bế tắc”. Nhân viên dân sự trong Bộ Quốc phòng thậm chí đi xa hơn khi cho rằng Nam Việt Nam thậm chí không trông mong có thể kiềm chế ngay cả Việt Cộng, nói chi đến mối đe dọa kết hợp của kẻ thù, nếu không có sự hỗ trợ liên tục và đầy đủ của Hoa Kỳ. Các thành viên của nhóm này nhìn chung đồng ý rằng những thành quả bình định là “thổi phồng và bấp bênh”; rằng những người Cộng sản đã đến Paris vì lý do chính trị và chiến lược—để cắt giảm quân phí và theo đuổi mục tiêu của họ thông qua đàm phán—chứ không phải vì họ đối mặt với thất bại trên chiến trường;  và rằng một giải pháp thỏa hiệp là giải pháp duy nhất ở Việt Nam.
 
Do đó, tồn tại hai dự đoán trái ngược nhau hoàn toàn về tương lai lâu dài của Nam Việt Nam và lực lượng quân sự của nước này. Những gì được coi là phương tiện để làm rõ quan điểm về tình hình Việt Nam chỉ làm lu mờ quan điểm của vị tổng thống mới. Henry Kissinger đã viết, “Các câu trả lời [cho NSSM 1] đã làm rõ rằng không có sự đồng thuận về sự thật, càng không phải về chính sách.”
 
Nixon phải đối mặt với một tình thế tiến thoái lưỡng nan nghiêm trọng. Ông không chuẩn bị rút quân đơn phương và trao Nam Việt Nam cho những người Cộng sản, nhưng ông cũng đã hứa sẽ chấm dứt chiến tranh và đưa quân đội về nước. Như Henry Kissinger sau đó đã nhận xét trong hồi ký của mình: “Chính quyền Nixon nhậm chức với quyết tâm chấm dứt sự can dự của chúng ta vào Việt Nam. Nhưng họ đã sớm phải đối mặt với thực tế cũng đã làm khổ người tiền nhiệm của mình. Trong gần một thế hệ, an ninh và tiến bộ của những người dân tự do đã đặt trọn vẹn  lòng tin vào nước Mỹ.  Chúng ta không thể đơn giản bỏ đi một sự nghiệp liên quan đến hai chính quyền, năm quốc gia đồng minh và 31.000 người đã hy sinh như thể chúng ta đang chuyển kênh truyền hình.”
 
Tổng thống mới phải đưa ra một chiến lược để đưa Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam, mà không “chỉ đơn giản là bỏ đi.” Sự tồn tại của Nam Việt Nam vẫn là một mục tiêu, nhưng mục tiêu chính là đưa Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam.
 
Nixon và các cố vấn của ông bắt đầu tập trung vào cách Hoa Kỳ có thể thoát khỏi cuộc xung đột và đồng thời mang lại cho Nam Việt Nam ít nhất một cơ hội sống sót sau khi Hoa Kỳ rời đi. Nhiệm vụ được thừa nhận là khó khăn, và thậm chí có thể là vô phương trong thời gian dài. Kissinger sau này tiết lộ quá trình suy nghĩ diễn ra trong Nhà Trắng:
 
Chúng tôi đã nhận ra ngay từ đầu là không chắc miền Nam có thể được tăng cường đủ để tự đứng vững trong khoảng thời gian mà sự phản đối trong nước đối với sự can dự của Hoa Kỳ cho phép. Do đó, một giải pháp đàm phán luôn được ưa chuộng hơn. Thay vì mạo hiểm nguy cơ Nam Việt Nam sụp đổ xung quanh lực lượng còn lại của chúng ta, một giải pháp hòa bình sẽ chấm dứt chiến tranh bằng một hành động chính sách và giao phó tương lai của Nam Việt Nam cho tiến trình lịch sử. Chúng ta có thể chữa lành vết thương ở đất nước này khi những người lính của chúng ta để lại hòa bình trên chiến trường và một khoảng thời gian lành mạnh để người miền Nam tự định đoạt số phận mình.
 
Bất chấp sự không chắc chắn liên quan đến việc cố gắng tăng cường lực lượng vũ trang Nam Việt Nam, tổng thống và các cố vấn thân cận nhất của ông, đặc biệt là Bộ trưởng Quốc phòng Melvin R. Laird và Bộ trưởng Ngoại giao William P. Rogers, nhận ra  đây là phương án hành động khả thi duy nhất nếu Hoa Kỳ muốn thoát khỏi Việt Nam.  Theo đó, Nixon đã ra lệnh cho các đại diện Hoa Kỳ thực hiện một “cách tiếp cận cực kỳ mạnh mẽ” để khiến Tổng thống Thiệu và chính quyền Nam Việt Nam phải chịu trách nhiệm lớn hơn cho cuộc chiến.
 
Điều không nói ra, nhưng vẫn rõ ràng đối với tất cả những người liên quan, là hàm ý QLVNCH sẽ chịu trách nhiệm chiến đấu lớn hơn trước khi lực lượng Hoa Kỳ rút quân, lúc này tổng cộng là 543.000 binh sĩ trong nước. Trong cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia ngày 25 tháng 1, chủ đề rút quân đã được thảo luận. Tướng Wheeler, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, đã nhận xét trong cuộc họp rằng việc cắt giảm một lượng nhỏ lực lượng Hoa Kỳ sẽ giúp tổng thống về mặt ngoại giao và “truyền tải hình ảnh một Nam Việt Nam tự tin”. Sau đó, Wheeler đã viết thư cho Abrams tại MACV rằng trên cơ sở cuộc họp này và các cuộc trò chuyện sau đó với Bộ trưởng Quốc phòng Laird, việc cắt giảm quân số sẽ sắp xảy ra, nhưng “cuộc thảo luận công khai về việc rút quân hoặc cắt giảm quân số tại Việt Nam nên được giới hạn trong việc rút quân chung trong bối cảnh các cuộc đàm phán Paris”; ông tiếp tục thúc giục Abrams “âm thầm kìm hãm bất kỳ cuộc thảo luận công khai nào [về việc rút quân] của các sĩ quan cấp cao của Hoa Kỳ”.  Vào thời điểm này, Abrams và Đại sứ Bunker đã gặp Tổng thống Thiệu vào ngày 17 tháng 1 để thảo luận chính thức về khả năng tái triển khai quân đội Hoa Kỳ dưới thời chính quyền Nixon mới. Các bánh xe đã được truyền động để loại bỏ lực lượng Hoa Kỳ khỏi Việt Nam một lần và mãi mãi. Những gì còn lại là thiết kế một phương tiện mà theo đó Hoa Kỳ trông không có vẻ bỏ rơi miền Nam  cho Cộng sản.
 
LAIRD ĐẾN SÀI GÒN
Để hiểu rõ hơn về tình hình thực tế ở Đông Nam Á, Nixon chỉ đạo Laird đến Nam Việt Nam để đánh giá trực tiếp. Laird cùng với Tướng Wheeler, đến Sài Gòn vào ngày 5 tháng 3 năm 1969, tại đó họ được các sĩ quan cấp cao của MACV phúc trình tóm tắt. Các nhân viên MACV nhấn mạnh quan điểm rằng lực lượng vũ trang Nam Việt Nam đang có những cải thiện đáng kể. Laird tuyên bố hài lòng nhưng chỉ thị cho Tướng Abrams đẩy nhanh chương trình chuyển giao phần lớn nỗ lực chiến tranh cho lực lượng Sài Gòn. Abrams nhắc lại lời cảnh báo ban đầu của mình rằng Nam Việt Nam không thể đơn độc chống lại một mối đe dọa VC và BV kết hợp. Tuy nhiên, Laird, viện dẫn áp lực chính trị trong nước, đã chỉ đạo Abrams chuẩn bị các kế hoạch để đưa chính sách mới vào hành động “trước khi thời hạn được giao cho chính quyền mới cạn kiệt . . .”
 
Bất chấp lời cảnh báo của Abrams và những khuyến nghị trái ngược của chính đội ngũ nhân viên của ông, những người đã phản ứng rất tiêu cực với NSSM 1, Laird trở về Washington với niềm tin rằng Nam Việt Nam cuối cùng có thể một mình tiếp quản toàn bộ cuộc chiến, do đó cho phép Hoa Kỳ rút quân hoàn toàn. Bộ trưởng Quốc phòng Laird, một đảng viên Cộng hòa được kính trọng đã phục vụ 17 năm tại Hạ viện, rất muốn chấm dứt chiến tranh vì ông nhận ra rằng thời gian ân hạn sau bầu cử truyền thống mà công chúng, báo chí và Quốc hội dành cho một tổng thống mới sẽ không kéo dài. Tình cảm phản chiến trên Đồi Capitol (nơi tọa lạc Quốc hội Mỹ) đang gia tăng, và Laird biết rằng Nixon sẽ phải chịu hậu quả nặng nề nếu ông không nhanh chóng chấm dứt chiến tranh. Hơn nữa, nếu chiến tranh ở Việt Nam kéo dài lâu hơn nữa, Laird lý luận rằng nó sẽ làm suy yếu sức mạnh và uy tín của Hoa Kỳ trên toàn thế giới ở những nơi quan trọng hơn nhiều đối với an ninh của Hoa Kỳ so với Đông Nam Á.  Ông tin rằng bất kỳ nỗ lực nào nhằm kéo dài cuộc xung đột sẽ dẫn đến xung đột và tranh cãi có khả năng gây tổn hại nghiêm trọng đến khả năng đạt được một giải pháp danh dự của Nixon. Nhận ra rằng cuộc chiến có thể kéo dài đến tương lai gần, ông muốn chấm dứt sự tham gia của Hoa Kỳ càng sớm càng tốt. Do đó, theo Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Jerry Friedheim, Laird “quan tâm nhiều hơn đến việc chấm dứt cuộc chiến ở Việt Nam hơn là giành chiến thắng”.
 
Vào ngày 13 tháng 3, Laird đã báo cáo những phát hiện từ chuyến đi của mình trong một bản ghi nhớ gửi cho tổng thống mới. Ông tin rằng Nixon không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chuyển chiến tranh sang Nam Việt Nam để giải phóng lực lượng Hoa Kỳ và xoa dịu cả phong trào phản chiến đang trỗi dậy và người Mỹ chỉ muốn chiến tranh biến mất. Ông đề xuất một kế hoạch được thiết kế để lực lượng vũ trang Nam Việt Nam có khả năng đối phó không chỉ với cuộc nổi dậy VC đang diễn ra mà còn với sự hiện diện liên tục của quân Bắc Việt ở miền Nam. Ông không đồng ý với Abrams rằng việc rút quân của Hoa Kỳ phải gắn liền với việc rút quân tương ứng của Cộng sản và lập luận rằng hỗ trợ lớn lao của Hoa Kỳ đã kìm hãm thế chủ động ​​của Nam Việt Nam và ngăn cản họ tiếp quản nhiều hơn nỗ lực chiến tranh. Ông cảm thấy rằng “định hướng” của các chỉ huy cấp cao Hoa Kỳ tại Việt Nam dường như đặt “trọng tâm vào các hoạt động hơn là hỗ trợ Nam Việt Nam có được phương tiện tự vệ”. Laird muốn các nhà lãnh đạo quân sự cấp cao của Hoa Kỳ tại miền Nam bắt đầu chuyển trọng tâm từ việc chiến đấu sang chuẩn bị cho Nam Việt Nam tự lập.  Bộ trưởng quốc phòng kết luận rằng lực lượng của Sài Gòn đang cải thiện đều đặn và đã đến lúc chuyển giao nhiều trách nhiệm hơn cho họ. Theo đó, ông đề xuất rút  50.000–70.000 quân Mỹ vào năm 1969.
 
Trong một cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia vào ngày 28 tháng 3, tổng thống và các cố vấn của ông đã thảo luận về các khuyến nghị của Laird. Tướng Andrew Goodpaster, khi đó là phó tướng của Tướng Abrams tại Sài Gòn, đã báo cáo với tổng thống rằng lực lượng Nam Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể và MACV thực tế đã gần đạt được mục tiêu “phi Mỹ hóa” cuộc chiến. Theo Henry Kissinger, Laird phản đối thuật ngữ “phi Mỹ hóa” của Goodpaster và đề xuất rằng cần có một thuật ngữ “tích cực” hơn như “Việt Nam hóa” để nhấn mạnh vào các vấn đề đúng đắn;  do đó, “Việt Nam hóa” trở thành hiện thân những nỗ lực của Nixon nhằm chuyển giao chiến tranh cho miền Nam.
 
Sau đó, Laird mô tả mục tiêu của chương trình mới trước Ủy ban Dịch vụ Vũ trang Hạ viện là “việc QLVNCH thực sự đảm nhận một phần lớn hơn các hoạt động chiến đấu từ lực lượng Hoa Kỳ” để “lực lượng Hoa Kỳ thực sự có thể được rút đi với số lượng đáng kể”. Những tuyên bố như vậy rõ ràng nhằm mục đích bán chính sách mới cho Quốc hội và công chúng Hoa Kỳ. Alexander M. Haig, khi đó là thành viên Hội đồng An ninh Quốc gia của Nixon, sau này mô tả kế hoạch của Laird là một “cú hích thiên tài về quan hệ công chúng”, nhưng chỉ ra rằng đó là một chương trình được thiết kế để xoa dịu những người chỉ trích chiến tranh của Hoa Kỳ, không phải là chính sách bảo vệ hiệu quả cho miền Nam Việt Nam”.
 
Laird, người trở thành nhân vật đề xuất chính cho Việt Nam hóa, được Kissinger mô tả là “hoài nghi về tính hữu ích của các cuộc đàm phán cũng như về khả năng giành chiến thắng quân sự; và ông ấy rất nhạy bén về mặt chính trị. Mối quan tâm chính của ông ta là đưa Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam trước khi chúng ta mất quá nhiều sự ủng hộ trong nước. Nhưng ông muốn làm như vậy mà không làm sụp đổ miền Nam Việt Nam. Do đó, ông ủng hộ toàn diện cho chính sách Việt Nam hóa. Ông nói chung ủng hộ đường lối cứng rắn trong các cuộc đàm phán và tốc độ rút quân nhanh nhất có thể. Ông đã tự thuyết phục mình rằng Việt Nam hóa sẽ hiệu quả; nó trở thành ưu tiên hàng đầu của ông.”
 
Việc Laird kiên trì thúc đẩy Việt Nam hóa và các cuộc rút quân của Hoa Kỳ sau đó đã khiến ông xung đột với cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống (vì những lý do sẽ được giải thích sau), nhưng vào tháng 4 1969, các khuyến nghị của Laird đã hoàn toàn thuyết phục Nixon, người sau đó đã viết, “Chính trên cơ sở sự ủng hộ nhiệt tình của Laird mà chúng tôi đã thực hiện chính sách Việt Nam hóa.” Thuyết phục tổng thống tán thành cách tiếp cận này có thể không mất nhiều thời gian. Alexander Haig khẳng định rằng Nixon đã bắt đầu nói về việc rút quân trong vòng năm ngày sau khi nhậm chức và tìm thấy câu trả lời mà ông đang tìm kiếm trong kế hoạch của Laird. Chiến lược Việt Nam hóa sẽ cho phép tổng thống khởi xướng việc giảm dần các hoạt động chiến đấu của quân đội Hoa Kỳ, với mục tiêu cuối cùng là rút quân hoàn toàn. Tuy nhiên, ông nhận ra rằng lực lượng Hoa Kỳ không thể rút quân một cách đột ngột. Mặc dù tình hình đang được cải thiện ở Nam Việt Nam, nhưng mức độ giao tranh đáng kể vẫn tiếp diễn. Do đó, lực lượng Hoa Kỳ sẽ phải duy trì các hoạt động chiến đấu để có đủ thời gian cần thiết giúp QLVNCH đủ mạnh để tiếp tục chiến đấu một mình.
 
Vào đầu tháng 4 năm 1969, Nixon đã đưa ra hướng dẫn lập kế hoạch cho chính sách mới trong Biên bản ghi nhớ Nghiên cứu An ninh Quốc gia 36 (NSSM 36), trong đó chỉ đạo “việc chuẩn bị một thời gian biểu cụ thể để Việt Nam hóa chiến tranh”.  Lịch trình là giải quyết “mọi khía cạnh tham gia của quân đội, bán quân sự và dân sự Hoa Kỳ vào Việt Nam, bao gồm lực lượng chiến đấu và hỗ trợ chiến đấu, nhân viên cố vấn và mọi hình thức trang thiết bị”. Mục tiêu nêu trong kế hoạch được yêu cầu là “chuyển giao dần dần… nỗ lực chiến đấu” từ lực lượng Hoa Kỳ sang Quân đội Nam Việt Nam. Chỉ thị của Nixon dựa trên một số giả định. Đầu tiên, nó cho rằng do thiếu tiến triển trong các cuộc đàm phán hòa bình Paris, bất kỳ cuộc rút quân nào của Hoa Kỳ cũng sẽ là đơn phương và không đi kèm với việc cắt giảm Quân BV  tương đương. Giả định này là một thay đổi đáng kể so với những giả định trước đó, vì nó có nghĩa là người miền Nam sẽ phải đối đầu với cả BV và VC. Thứ hai, người ta cho rằng lịch trình rút quân sẽ phụ thuộc vào tình hình hoạt động ở Nam Việt Nam; việc rút quân của Hoa Kỳ sẽ được biện minh trên cơ sở “cắt và thử” và Tướng Abrams sẽ phải đánh giá định kỳ về  tác động của chúng trước khi tiến hành giai đoạn cắt giảm quân tiếp theo. Thứ ba, chỉ thị cho rằng lực lượng Nam Việt Nam sẽ sẵn sàng gánh vác nhiều trách nhiệm quân sự hơn cho cuộc chiến. Dựa trên ba giả định này, sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam sẽ được giảm bớt bằng cách rút quân theo từng giai đoạn cho đến khi cuối cùng chỉ còn lại một phái bộ hỗ trợ và cố vấn. Việc rút quân sẽ bắt đầu vào ngày 1 tháng 7 năm 1969.
 
Vì vậy, chính quyền Nixon, bất chấp những đánh giá từ nhiều cơ quan chính phủ cho rằng QLVNCH không bao giờ có thể chống lại mối đe dọa kết hợp giữa VC-BV, đã đưa ra một chiến lược để chuẩn bị cho Nam Việt Nam thực hiện điều đó, chỉ thị cho bộ chỉ huy Hoa Kỳ tại Việt Nam lập kế hoạch chuyển giao toàn bộ nỗ lực chiến tranh trên bộ cho Sài Gòn. Tất cả những gì còn lại để thiết lập chiến lược mới là một thông báo công khai.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến