17b
Bi kịch dân tộc qua thân
phận
TIÊU PHONG
Tôi đã có đôi lần viết về
Tiêu Phong, viết trực tiếp về ông, hoặc gián tiếp qua nhân vật A Châu. Nhưng vẫn
thấy chưa nói được gì. Bi kịch thân phận của Tiêu Phong quá lớn, nên cuộc đời
ông, giống như các nhân vật trong bị kịch Hy Lạp cổ đại, là một suối nguồn hầu
như vô tận, một inexhaustible source để người cầm bút đặt lại nhiều vấn đề từ
cơ sở.
Từ vấn đề thân phận con
người, vấn đề thị phi thiện ác, vấn đề nghiệt oan của Định Mệnh cho đến vấn đề
dân tộc. Không một tác phẩm võ hiệp nào, và hiếm có một tác phẩm văn học nào lại
đặt lại vấn đề dân tộc một cách cay đắng và bi tráng như Thiên Long Bát Bộ qua
nhân vật Tiêu Phong.
Có lẽ chưa bao giờ, lịch
sử nhân loại lại phải trải qua những cuộc xung đột sắc tộc mãnh liệt trên phạm
vi toàn cầu như hiện nay. Không biết tự bao giờ, những định kiến sắc tộc cứ mãi
cháy âm ỉ trong lòng người, và chỉ cần có dịp là nó lập tức bùng lên thành một
biển lửa ngập tràn bạo lực. Ngày lại ngày, nhiều nơi trên thế giới lại cứ tiếp
tục bị nhận chìm trong máu lửa hận thù; những người anh em này ngã xuống và những
người anh em khác lại cứ tiếp tục đứng lên reo mừng chiến thắng. Định kiến sắc
tộc, với lưỡi hái của Thần Chết, giờ đây đang bước vào giai đoạn hoàng kim.
Tấn bi kịch trong Thiên
Long Bát Bộ có thể xem như bi kịch dân tộc, qua nhân vật kiêu dũng là Tiêu
Phong. Tác phẩm mở đầu bằng cái chểt bi thảm của người mẹ, và khép lại bằng cái
chết bi tráng của người con. Hai cái chết đều diễn ra tại Nhạn môn quan, cách
nhau đến mấy mươi năm và đều do ngộ nhận nảy sinh từ định kiến dân tộc. Như
nhân vật người câm trong Le Malentendu của Albert Camus, Nhạn môn quan là một
chứng nhân lịch sử cho toàn tác phẩm. Chỉ chứng kiến và im lặng. Để rồi mai
sau, sự im lặng đó sẽ dội mãi vào tâm khảm người đọc tiếng gọi khẩn thiết của vấn
đề dân tộc.
Mộ Dung Bác vì hoài bão
muốn khôi phục lại nước Đại Yên của tổ tiên, nên đã dựng nên tấm thảm kịch tại
Nhạn môn quan, nhằm khuấy động can qua giữa hai nước Tống-Liêu để thừa cơ thủ lợi.
Quần hùng Trung Nguyên, vì lòng ái quốc mù quáng, đã rơi vào vòng thao túng của
Mộ Dung Bác.
Họ tổ chức chặn đánh chiếc
xe chở vợ chồng người Khiết Đan là Tiêu Viễn Sơn cùng đứa con ngay tại vùng
biên giới Nhạn môn quan. Người mẹ hiền lành bị giết chết một cách oan uổng, người
cha- sau những phút giây chiến đấu kiêu hùng và tuyệt vọng- đã ôm con rơi xuống
vực thẳm. Trước khi rơi xuống vực thẳm, người cha đã kịp thời ném đứa con trai
còn ẵm ngữa lên nằm giữa vùng đất đầy xác chết ngổn ngang, như một lời thách thức
với lương tri.
Khi quần hùng Trung
Nguyên hiểu ra vấn đề thì tất cả đã quá muộn màng. "Here’s the smell of
the blood still; all the perfumes of Arabia will not sweeten this little
hand" (Shakespeare, Macbeth, Act 5, Scene 1) (Hãy còn đây mùi của máu, và
tất cả hương hoa vùng Á Rập cũng không rửa sạch nỗi bàn tay nhỏ bé). Bàn tay quần
hùng dầu không nhỏ bé, nhưng đã lỡ nhuốm máu người vô tội thì khó lòng rửa sạch.
Mọi việc đã lỡ làng, không làm sao cứu vãn được nữa.
Quần hùng Trung Nguyên,
để tránh nỗi ray rức chắc chắn sẽ ám ảnh suốt đời, nên đem đứa bé trai đó về
giao cho một đôi vợ chồng tiều phu nghèo không con dưới chân núi Thiếu Thất.
Giá như đứa con trai kia là đứa bé tầm thường thì mọi việc sẽ trôi êm xuôi theo
cuộc sống bình yên, và huyết án năm nào tại Nhạn Môn quan sẽ bị vùi trong quên
lãng.
Nhưng người cha đã vốn
thuộc nòi long tượng nên người con cũng khí át mây xanh. Và mọi bi kịch đều khởi
đầu từ đó. Đứa con tài tuấn kia, bằng phong độ anh hùng và chiến công hiển
hách, đã nghiễm nhiên trở thành bang chủ của Cái Bang là Tiêu Phong. Ông nghĩ rằng
mình là người Hán, nên đã bao phen không ngại xả thân vì người Hán mà chiến đấu
với người Khiết Đan.
Bi kịch dân tộc của ông
chỉ bắt đầu từ sự ghen tuông của người đàn bà xinh đẹp là Khang Mẫn, phu nhân của
Mã phó bang chủ. Khi quần hùng đã biết ông là người Khiết Đan thì tự nhiên một
bức tường ngăn cách lập tức được dựng lên giữa ông và họ.
Họ quên ngay một bang chủ
Tiêu Phong người Hán kiêu hùng và hào hiệp ngày nào, và thay vào đó là hình ảnh
đáng căm hận của một tên “Liêu cẩu” thuộc dân tộc đối nghịch. Định kiến dân tộc
quả có một tác dụng mãnh liệt, dễ dàng đẩy con người vào thế đối đầu một mất một
còn. Sự xung đột về chính tà trong các tác phẩm khác đã được đẩy lên một bình
diện cao hơn trong Thiên Long Bát Bộ, đó là sự xung đột về quan điểm dân tộc.
Trên bình diện chính tà,
thì Phe chính giáo xem phe Ma giáo là tà ma ngoại đạo, còn phe Ma giáo lại chẳng
thèm coi phe Chính giáo vào đâu. Trên bình diện dân tộc, thì người dân nước này
cứ luôn lấy quốc gia mình làm “hệ quy chiếu” để nguyền rủa dân nước bên kia,
xem đó như là loài mọi rợ. Người Tống gọi người Liêu là “Liêu cẩu” (bọn chó
Liêu). Người Liêu lại gọi người Tống là “Tống trư” (loài lợn Tống). Chẳng bên
nào chịu kém bên nào.
Ngày còn ở Trung Nguyên,
khi chứng kiến cảnh quân lính Khiết Đan tàn sát dân Tống ở vùng biên giới, ông
đã thẳng tay chém giết bọn lính Khiết Đan mà ông xem như thuộc về một dân tộc
man rợ. Nhưng trong những tháng ngày sống nơi vùng biên giới cùng A Tử, cũng
như khi làm Nam viện đại vương, ông có nhiều phen chứng kiến cảnh giết chóc lẫn
nhau giữa hai dân tộc nơi biên giới.
Quân lính Khiết Đan dưới
quyền ông cũng tàn ác và dã man đối với người dân đất Tống không kém bọn lính Tống
đối với người dân nước Liêu. Tại biên giới, hai bên giết hại lẫn nhau như giết
loài chó lợn, và cũng luôn nhân danh con người để lên án lẫn nhau. Chân lý nằm ở
đâu, khi mà định kiến về quốc gia vẫn đè nặng lên con người muôn thuở?
Ông chợt nhận ra cái nhỏ
nhoi vô lý trong định kiến khắt khe về dân tộc. Mặc dù là con dân nước Liêu
nhưng quê hương thật sự của Tiêu Phong lại là Trung Nguyên. Nơi đó đã chứng kiến
bao thăng trầm vinh nhục của đời ông, nơi đó ông đã trải qua bao vui buồn cùng
hào sĩ khắp giang hồ. Do đó, ông thực sự chán nản khi vua Liêu muốn ông cầmđầu
cuộc chinh phạt Trung Nguyên. Để làm gì cho cuồng vọng dân tộc, khi mà cái giá
phải trả là cái chết của muôn vạn sinh linh?
Nhưng phận làm bề tôi
sao có thể trái lệnh vua? Ông dự định dẫn A Tử trốn về Trung Nguyên, nhưng A Tử,
do mù quáng vì tình yêu, đã cho ông uống một loại “thuốc yêu”, mà theo hoàng hậu
nước Liêu sẽ khiến người uống nó thương yêu mình mãi mãi! Loại “thuốc yêu” đó
đã khiến ông mất hết nội lực, và bị bắt khi dẫn A Tử chạy trốn lúc nửa đêm.
Ngày xưa, người chị là A
Châu dịu hiền đã vì chữ hiếu mà làm tan nát cả trái tim ông, thì lần này người
em tai quái là A Tử lại vì chữ yêu mù quáng mà khiến ông bị bắt. Ông bị cầm tù,
và quần hùng Trung Nguyên đã tổ chức vượt qua Nhạn môn quan để vào đất Liêu cứu
ông. Khi cùng quần hùng chạy trốn đến Nhạn môn quan thì cửa ải lại khép kín,
trong khi truy binh của vua Liêu đuổi gấp phía sau, ông cùng quần hùng bị kẹt
ngay tại làn giới tuyến giữa hai quốc gia thù địch.
Bên kia Nhạn Môn quan là
đất nước của một dân tộc đã từng xem như ông như kẻ thù, nhưng lại là nơi ông
đã trải qua bao vui buồn từ thời thơ ấu. Bên này Nhạn Môn quan là đất nước quê
hương, nhưng dân tộc đó đã xem ông như một tên phản bội. Trời đất mênh mông
nhưng không có nơi nào chứa đựng nổi bi kịch quá lớn của con người!
Chết tại Liêu ư? Hồn
khách anh hùng sẽ lấy gì để đáp tạ tình huynh nghĩa đệ của hào sĩ Trung Nguyên?
Chết ở Tống ư? Người con dân nước Liêu đó ắt sẽ biến thành hồn ma suốt đời
ngóng vọng về cố quốc. Nếu trong cõi tư tưởng, con người có thể tiêu dao dao giữa
hai cõi thị phi thiện ác, thì trong “cõi người ta”, con người buộc phải chọn lựa.
Nhưng phải chọn lựa ra sao, khi mà mọi ngã đường đều dẫn vào tuyệt lộ? Cho nên
Kim Dung phải để Tiêu Phong chết nơi biên giới, nấm mộ ông không ở Liêu cũng chẳng
ở Tống mà là vực thẳm nơi Nhạn Môn quan. Đó có lẽ là lối thoát tất yếu và cuối
cùng cho vấn nạn về dân tộc.
Hán Liêu nào biết về
đâu.
Ngậm ngùi tiếng hát A
Châu thuở nào.
Rượu chìm trong cõi
chiêm bao.
Bi kịch tuổi thơ của
Tiêu Phong đã bắt đầu tại Nhạn Môn quan. Và ông chấm dứt bi kịch đời mình bằng
mũi tên tự đâm vào ngực, cũng tại Nhạn Môn quan. Nhạn Môn quan ngàn đời sừng sững
giữa hai nước Tống - Liêu như định kiến không thể phá bỏ nỗi về quốc gia và
biên giới trong tâm trí con người.
Nhưng Nhạn môn quan kia
dẫu cao sừng sững, cao đến mức làm nãn lòng cả những đàn hồng nhạn thiên di,
con người vẫn có thể vượt qua được, song đến ngày nào chúng ta mới có thể thực
sự vượt qua được những “Nhạn Môn quan” trong tâm tưởng?
Kinh Thánh chép rằng thời
xa xưa, con cháu của Noah kiêu ngạo muốn lên đến cả trời nên mới xây tháp Babel
tại bình nguyên Shinar ở Babylonia ( Holy Bible, Genesis 11:1-9). Đức Chúa Trời
thấy vậy bèn khiến cho họ nói đủ thứ tiếng để họ không còn hiểu lẫn nhau, và
công trình đành bỏ dở. Từ đó, con người phải chia xa nhau để sống rải rác khắp
nơi trên thế giới.
Nếu quả vậy, thì có lẽ
dân tộc cũng hình thành từ đó, và sự xung đột dân tộc cũng bắt đầu từ đó cho
mãi đến ngày nay. Đó phải chăng cũng là sự trừng phạt của Thượng Đế cho sự kiêu
ngạo ngu xuẩn của con người?
Nhận xét
Đăng nhận xét