VỀ TÊN GỌI SÀI GÒN
VỀ TÊN GỌI
SÀI GÒN
SÀI GÒN
Khu vực Chợ Lớn.
Về nguồn gốc và ý nghĩa của cái tên Sài Gòn, có 3 thuyết chính từng được
nêu ra: Thuyết của các ông Trương Vĩnh Ký và Lê Văn Phát; Thuyết của ông Louis
Malleret; Thuyết của ông Vương Hồng Sển. Thuyết nào cũng có vẻ có lý phần nào
nhưng thật sự, không cái nào có thể làm cho chúng ta hoàn toàn thỏa mãn…
Ba
thuyết về cái tên Sài Gòn
Trong Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị của ông Huỳnh Tịnh Của thì Sài tức là củi
thổi, còn Gòn là tên loại cây cỏ bông nhẹ xốp, nhẹ hơn bông thường, trong Nam
hay dùng để dồn gối, dồn nệm. Về địa danh Sài Gòn thì Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị
ghi: tên riêng của đất Chợ Lớn, bây giờ lại hiểu là đất Bến Nghé.
Ðịnh nghĩa Sài Gòn của quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị cho ta thấy tên Sài
Gòn trước đây dùng để chỉ vùng Chợ Lớn hiện nay, còn vùng mà ta gọi là Sài Gòn
hiện nay thì trước đây lại gọi là Bến Nghé. Ðiều này được xác nhận nhờ hai người
Anh là Crawford và Finlayson đã đến vùng này năm 1922. Cứ theo lời những người
này thuật lại thì Sài Gòn và Bến Nghé là hai thành phố phân biệt nhau và cách
xa nhau độ 1 hay 2 dặm. Bến Nghé (mà các tác giả trên đây viết là Bingeh hay
Pingeh) là nơi đồn binh và đặt cơ quan chánh phủ, còn Sài Gòn là trung tâm thương
mại và là nơi cư ngụ của người Hoa kiều và các thương gia (tài liệu của
Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises tức là Tập san của Hội Cổ Học Ấn
Hoa, năm 1942, tập số 2).
Vậy, Sài Gòn và Bến Nghé là hai thành phố phân biệt nhau và có hai tên
khác nhau đàng hoàng, nhưng đến khi người Pháp chinh phục ba tỉnh phía đông Nam
Kỳ năm 1861, họ dùng tên Sài Gòn để chỉ đất Bến Nghé cũ, mà họ dùng làm trung
tâm hành chánh, vì Bến Nghé là một tiếng khó cho người ngoại quốc phát âm hơn
Sài Gòn. Người Việt Nam bắt buộc phải theo họ mà gọi Bến Nghé là Sài Gòn, còn
vùng trước đó gọi là Sài Gòn thì được gọi là Chợ Lớn theo một cái tên mà sử gia
Phan Khoang trong bộ Việt Sử Xứ Ðàng Trong, cho là dường như đã có từ đời vua
Gia Long.
Theo quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị của ông Huỳnh Tịnh Của thì tên Sài Gòn
có nghĩa là củi gòn. Nhà học giả Trương Vĩnh Ký đã theo thuyết này mà ông cho
biết là dựa vào bộ Gia Ðịnh Thông Chí của ông Trịnh Hoài Ðức. Trong tập
Souvenirs historiques, ông Trương Vĩnh Ký lại kể lại rằng người Khmer xưa có trồng
cây gòn chung quanh đồn Cây Mai và chính ông còn thấy vài gốc cổ thụ này tại
vùng ấy năm 1885.
Sau ông Trương Vĩnh Ký, còn có ông đốc phủ Lê Văn Phát đi xa hơn trong
thuyết kể trên đây. Theo ông Lê Văn Phát thì trước đây, vùng Sài Gòn Chợ Lớn
hãy còn bị rừng bao phủ và tên Sài Gòn có lẽ phát xuất từ tên Khmer Prei Kor tức
là Rừng Gòn (Forêt des Kapokiers). Prei Kor là tên mà người Khmer dùng để gọi một
địa phương mà trọng tâm là Chùa Cây Mai ở Phú Lâm ngày nay. Mặt khác, ông Lê
Văn Phát cũng cho biết rằng người Lào (mà ngôn ngữ gần như ngôn ngữ Thái) đã gọi
vùng này là Cai Ngon, mà Cai Ngon theo tiếng Thái cũng có nghĩa là Rừng Chỗi
Cây Gòn (Brousse des kapokiers).
Thuyết về nguồn gốc tên Sài Gòn của các học giả Việt Nam trên đây sau
này đã bị một số học giả khác bác bỏ. ông Vương Hồng Sến trong bộ Sài Gòn Năm
Xưa cho biết rằng theo tiếng Khmer thì Kor có nghĩa là gòn mà cũng có thể có
nghĩa là con bò, và Prei Kor có thể là Rừng Bò chứ chưa ắt hẳn là Rừng Gòn.
Mặt khác, các nhà học giả Pháp nghiên cứu về nước Campuchia đã tìm được
trong bộ sử chép tay của nước ấy một dữ kiện quan trọng về vùng này. Theo bộ sử
ấy, năm 1623, một sứ bộ của chúa Nguyễn đã đến Campuchia xin vua Campuchia cho
đặt một số sở thuế ở vùng Prei Nokor và Kas Krobey. Vua Campuchia lúc ấy có một
hoàng hậu là con gái chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên). Bởi đó, ông đã chấp nhận lời
yêu cầu của chúa Nguyễn.
Theo ông Etienne Aymonier thì Nokor là xứ, quốc gia và Prei Nokor là rừng
của vua (forf royale). Nhưng linh mục Tandart lại bảo rằng tiếng Nokor do tiếng
nam phạn Nagaram mà ra, và có nghĩa là Thành phố của rừng hay thành phố ở giữa
rừng (ville de la forêt). Bởi vậy theo ông, Prei Nokor có nghĩa là thành phố.
Nhà học giả Pháp Louis Malleret khi nêu ra tài liệu về Prei Nokor đã dựa
vào ý nghĩa của tiếng Khmer này theo linh mục Tandart để bác bỏ thuyết của các
học giả Việt Nam trước đó cho rằng Sài Gòn có nghĩa là Củi Gòn. Ông đã theo ý
kiến của một người Pháp khác là Maurice Verdeille theo đó tiếng Sài Gòn có lẽ
phát xuất từ tiếng Tây ngòn có nghĩa là cống phẩm của phía Tây (tribut de
l’ouest). Tiếng Hán Việt từ cống phẩm của phía Tây là Tây Cống, nên Tây Ngòn hẳn
là Tây Cống, nhưng phát âm theo giọng Trung Hoa. Sở dĩ ông Malleret theo thuyết
này là vì ông đã dựa vào một dữ kiện lịch sử do ông Trịnh Hoài Ðức chép lại, là
khi Campuchia bị phân ra cho hai vua thì cả hai vua nầy đều nạp cống phẩm cho
chúa Nguyễn ở Prei Nokor, vốn là thủ đô của vua thứ nhì từ năm 1674 (trong khi
vua thứ nhất đóng đô ở Oudong ở phía bắc Nam Vang).
Một tác giả khác, ông Vương Hồng Sển, nhắc lại trong quyển Sài Gòn Năm
Xưa rằng người Hoa Kiều đã tập trung vào vùng Chợ Lớn ngày nay để mua bán năm
1778 sau khi Cù Lao Phố (gần tỉnh lị Biên Hòa ngày nay) là nơi được thành lập để
mua bán từ cuối thế kỷ thứ 17 đã bị Tây Sơn phá tan khi họ kéo vào đánh miền
Nam. Sau khi thành phố này đã vững, người Hoa Kiều đã đáp thêm bờ kinh Chợ Lớn,
cẩn đá cho cao ráo kiên cố. Và có lẽ để ghi công việc này, họ đặt tên chỗ mới
này là Ðề Ngạn, tức là bờ sông cao dốc trên có đê ngăn nước. Ðề Ngạn là tiếng
Hán Việt, chớ người Trung Hoa phát âm theo giọng Quảng Ðông thì nói thành Tài
Ngon hay Thầy Ngồnn. Ông Vương Hồng Sển cho rằng tiếng Sài Gòn chính do Thầy Ngồnn
mà ra.
Những
con thuyền trên kênh Bonard.
Về đất Bến Nghé thì người Trung Hoa gọi là Xi Cong. Ông Vương Hồng Sển
cho rằng đó là họ đọc trại lại tiếng Sài Gòn của ta và khi viết ra Hán văn thì
họ dùng hai chữ mà ta đọc là Tây Cống.
Vậy, có ba thuyết về nguồn gốc và ý nghĩa của tên Sài Gòn:
1.
Thuyết của các ông Trương Vĩnh Ký và Lê Văn Phát: Sài Gòn do tiếng
Khmer Prei Kor mà ra, và có nghĩa là củi gòn.
2.
Thuyết của ông Louis Malleret: Sài Gòn do tiếng Tây Ngòn, tức là Tây Cống
phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là cống phẩm của phía Tây.
3.
Thuyết của ông Vương Hồng Sển: Sài Gòn do tiếng Thầy Ngồnn tức là Ðề Ngạn
phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là bờ sông cao dốc trên có đê ngăn nước.
Còn về tiếng Tây Cống, ông Vương Hồng Sển lại cho rằng nó chỉ được người Trung
Hoa dùng sau này để phiên âm lại tên Sài Gòn sau khi tên này được dùng đẻ chỉ đất
Bến Nghé cũ.
Nhìn
lại nguyên tắc đặt địa danh
Ba thuyết trên đây cái nào cũng có vẻ có lý phần nào nhưng thật sự,
không cái nào có thể làm cho chúng ta hoàn toàn thỏa mãn. Như thế có lẽ vì những
người nêu ra các thuyết ấy đã quên để ý đến cách ông bà chúng ta đặt các địa
danh ở Nam Kỳ trước đây. Chúng ta có thể nhận thấy rằng trong việc đặt địa danh
này, ông bà chúng ta đã theo một số nguyên tắc:
1. Các cụ có thể phiên âm một địa danh Khmer đã có và bỏ dấu cho thành
tiếng Việt Nam. Thí dụ như Psar Deck thiếng Khmer là Chợ Sắt đã được các cụ gọi
lại là Sa Ðéc, hay Me So tiếng Khmer là Người Ðàn Bà Ðẹp hay nàng Tiên được các
cụ gọi là Mỹ Tho. Trong một bài đăng trên tờ Việt Báo, ông Phạm Nam Sách khi
nói về tỉnh Ba Xuyên đã nhắc đến một địa danh mà ông nói là là Bảy Sào, Bải
Sào, Bảy Sau hay Bải Sau chi đó. Thật sự đó là Bải Xào, một tiếng phát xuất từ
tiếng Khmer Bai Xao có nghĩa là Cơm Sống. Ðịa danh này sở dĩ có là vì trong trận
đánh nhau với người Việt Nam, người Khmer đã thua chạy về đến đó và ngừng lại nấu
cơm ăn, nhưng cơm chưa kịp chín thì quân Việt Nam lại kéo đến và người Khmer phải
bỏ chạy. Ðể đánh dấu việc này, họ gọi đất đó là Cơm Sống, tiếng Khmer là Bai
Xao và các cụ ta bỏ dấu thêm thành Bải Xào.
Vườn
tược ở ngoại ô Sài Gòn, dọc tuyến đường đi Mỹ Tho.
2.
Các cụ có thể dịch nghĩa một địa danh Khmer đã có. Thí dụ như tên Bến
Nghé phát xuất từ tiếng Khmer Kompong Krabei có nghĩa la Vũng Trâu. Theo sử
Khmer mà ông Malleret viện dẫn thì ngoài Prei Nokor, vua Campuchia còn cho chúa
Nguyễn đạt sở thuế ở Kas Krobey. Chữ Krobey rất gần Krabei, và có thể Kas
Krobey với Kompong Krobei cũng là một và có nghĩa là Vũng Trâu, Bến Trâu gì đó.
3.
Nhưng tên theo hai loại trên đây là do người Việt Nam bình dân đặt ra
khi mới đến một địa phương. Về sau, khi đã có nhiều người Việt Nam ở và triều
đình Việt Nam đặt ra các đơn vị hành chánh, thì triều đình lại dùng tiếng Hán
Việt như Trấn Biên, Phiên Trấn, Phước Long, Phước Tuy v.v.. Mặt khác, khi viết
sử hay viết sách địa lý mà gặp một tên nôm do người bình dân đã đặt, các cụ đã
dịch phăng nó ra tiếng Hán Việt chớ ít khi chịu chép tên nôm. Như Ba Giồng các
cụ dịch là Tam Phụ; Bến Nghé các cụ dịch lại là Ngưu Chử khi chép vào sách chớ
không chịu viết tên nôm là Ba Giồng, Bến Nghé.
Nếu lấy các qui tắc đặt địa danh của các cụ ngày xưa làm tiêu chuẩn để
suy luận thì ta thấy ngay các thuyết trên đây về nguồn gốc và ý nghĩa của Sài
Gòn không ổn.
Nếu các cụ ta ngày xưa muốn dịch tiếng Khmer Prei Kor ra tiếng Việt thì
các cụ đã dùng tên Củi Gòn, Cây Gòn hay Rừng Gòn để đặt cho địa phương này, chớ
không ghép một tiếng Hán Việt là Sài với một tiếng nôm là Gòn để thành Sài Gòn,
cũng như khi dịch Kompong Krabei ra tiếng Việt, các cụ đã gọi là Bến Nghé chớ
không nói Tân Nghé, Chử Nghế hay Ngạn Nghé (Tân, Chử và Ngạn là những tiếng Hán
Việt có nghĩa là cái cồn nhỏ, bến sông, bờ sông). Nếu bảo rằng gòn là một loại
cây không có tên Hán Việt và các cụ đã dùng tên ấy như tiếng Hán Việt thì các cụ
đã theo văn phạm Hán Việt mà gọi Củi Gòn là Gòn Sài chớ không thể gọi là Sài
Gòn.
Chữ Sài là tiếng Hán Việt có nghĩa là Củi, nhưng cũng chữ ấy mà dùng
làm chữ nôm thì lại đọc là Thầy. Vậy, nếu đọc theo tiếng nôm hoàn toàn hai chữ
mà ông bà chúng ta dùng để chỉ tên đất ta đang nghiên cứu thì ta có Thầy Gòn. Tên
này rất gần với Tây Ngòn hay Thầy Ngồnn là những tiếng Hán Việt Tây Công hay Ðề
Ngạn đọc theo giọng Trung Hoa. Nhưng các cụ ngày xưa rất sính dùng tiếng Hán Việt.
Ðến như tiếng nôm hoàn toàn là Ba Giồng, Bến Nghé mà các cụ còn nhất định phải
dịch ra là Tam Phụ, Ngưu Chử khi viết vào sách vở thì không lý do gì các cụ lại
không dùng các tiếng Hán Việt đã sẵn có là Tây Cống hay Ðề Ngạn, mà lại dùng tiếng
Thầy Gòn là tiếng phiên âm theo giọng của người Trung Hoa.
Vậy, các thuyết kể trên đây đều không vững cả.
Tiếng
Khmer hay tiếng Thái?
Cuối cùng, chỉ còn một dấu vết nhỏ trong các tài liệu nói về ý nghĩa và
nguồn gốc tên Sài Gòn có thể giúp ta một lối thoát: đó là việc ông Lê Văn Phát
cho biết rằng người Lào đã gọi vùng Chợ Lớn ngày nay là Cai Ngon, mà Cai Ngon
theo tiếng Thái có nghĩa là Rừng Chỗi Cây Gòn. Chúng tôi không biết tiếng Lào
hay tiếng Thái nên không thể xác nhận được ý nghĩa của Cai Ngon theo tiếng
Thái, nhưng nếu quả đúng như ông Lê Văn Phát nói thì tên Sài Gòn do ông bà ta
phiên âm từ tiếng Thái Cai Ngon và bỏ dấu theo giọng Việt Nam như thông lệ.
Xét về mặt nguyên tắc đặt địa danh của ông bà chúng ta ngày xưa, thì vấn
đề này có thể kể là tạm giải quyết. Nhưng nghi vấn còn lại là tại sao lại có tiếng
Lào hay tiếng Thái lọt vào đây? Hiện nay, không có nhiều tài liệu lịch sử giúp
chúng ta có một sự hiểu biết rộng rãi và chính xác về thời kỳ người Việt Nam mới
vào ở đất Nam Kỳ. Chúng ta chỉ có thể dựa vào một số dữ kiện sau đây để suy luận:
1.
Vào đầu thế kỷ 17, nước Campuchia đã bị người Xiêm (Thái Lan hiện nay)
uy hiếp nặng nề, và chính vì muốn dựa vào người Việt Nam để chống lại Xiêm mà
vua Chey Chetta II đã đi cưới công chúa Ngọc Vạn (là con gái chúa Sãi Nguyễn
Phúc Nguyên) về làm hoàng hậu năm 1620, rồi đến năm 1623 lại để cho chúa Nguyễn
đặt những cơ sở thâu thuế ở vùng Sài Gòn, Chợ Lớn ngày nay.
2.
Vùng Chợ Lớn chỉ trở thành một vùng thương mại thịnh vượng từ năm 1788
với khối người Hoa Kiều tụ tập về đó sau khi Cù Lao Phố bị Tây Sơn phá hủy. Vậy,
lúc chúa Nguyễn mới đặt cơ sở thuế hơn 150 năm về trước vùng này chưa có mua
bán gì nhiều.
3.
Người Việt Nam chỉ vào ở Nam Kỳ nhiều từ khi có lực lượng của ông Trần
Thượng Xuyên đóng thường trực để bảo vệ cho họ từ năm 1680. Vậy, lúc chúa Nguyễn
đặt sở thuế ở vùng Chợ Lớn ngày nay, hơn 50 năm trước đó, chưa có đông người Việt
Nam và chưa có sản xuất nhiều lúa gạo để bán.
4.
Như thế, cơ sở thuế của chúa Nguyễn chắc chỉ đánh vào một vài sự buôn
bán nhỏ, không quan trọng lắm, và do đó mà vua Campuchia đã dễ dàng cho chúa
Nguyễn thâu lấy nguồn lợi này, chớ nếu có sự mua bán quan trọng và quyền lợi
thuế vụ lớn thì vua Campuchia lúc đó vốn còn hoàn toàn độc lập với chúa Nguyễn,
chắc không phải chấp nhận dễ dàng lời yêu cầu của chúa Nguyễn. Vậy, sự mua bán
đó dựa vào món hàng gì? Có thể một trong những món hàng được buôn bán thời đó
là gòn, vì vùng này có nhiều cây gòn, có lẽ không nhiều đến thành rừng, nhưng
cũng đạt mức quan trọng để có thể gọi là rừng chổi được. Người Xiêm có thể đã đến
đó mua gòn để đem về nước dồn gối, dồn nệm. Một ít thương gia Xiêm có thể đã có
mặt ở vùng này trước khi chúa Nguyễn đặt sở thuế tại đó, và vì thấy vùng này có
nhiều cây gòn, họ gọi nó là Cai Ngon tức là Rừng Chổi Cây Gòn, rồi các viên chức
Việt Nam liên lạc với họ để đánh thuế lúc mới đến đã theo họ mà gọi đất này là
Sài Gòn, thay vì phiên âm hay dịch nghĩa tên Khmer của địa phương này.
5.
Về cái tên Khmer này, các học giả đã không đồng ý kiến với nhau, người
thì nói là Prei Kor, người thì nói là Prei Nokor. Ông Malleret đã dựa vào sử
Khmer mà bảo đó là Prei Nokor và theo linh mục Tandart để dịch Prie Nokor là
thành phố của rừng. Vì không biết tiếng Khmer và văn phạm Khmer, chúng tôi
không thể đi sâu vào vấn đề này, nhưng vẫn thấy có những chỗ không ổn.
Tuyến
xe điện Sài Gòn – Gò Vấp đang chạy dọc theo đường Rue de l’Église (nay là Bùi Hữu
Nghĩa) vào gần năm 1920.
Nếu Prei Kor có nghĩa là Rừng Gòn hay Rừng Bò thì văn phạm Khmer cũng
như văn phạm Việt Nam đặt tiếng rừng lên trên, tiếng phụ nghĩa cho rừng ở dưới.
Như vậy Prei Nokor dịch ra là rừng của vua như Aymonier thì vẫn hợp với văn phạm
đó, còn dịch ra như linh mục Tandart là thành phố giữa rừng thì lại đi ngược với
văn phạm đó rồi. Hiểu theo văn phạm như nói trên đây thì Prei Nokor là rừng của
thành phố mới phải, nhưng tên Rừng của Thành Phố thì cố nhiên là không có ý
nghĩa gì.
Mặt khác, nếu Prei Nokor là thành phố giữa rừng hay rừng của vua thì nó
chỉ có thể có từ năm 1674, là năm mà vua thứ nhì của Campuchia cho chúa Nguyễn
đến đặt sở thuế tại đó. Bấy giờ thì đất này hãy còn là một thị xã nhỏ, không có
vua ở nên không thể mang tên Prei Nokor là thành giữa rừng hay rừng của vua được.
Do các nghi vấn trên đây, chúng ta thấy rằng thuyết của ông Malleret
không vững. Và chúng ta có thể đua ra giả thuyết khác: địa điểm mà vua
Campuchia cho chúa Nguyễn đặt sở thuế vẫn tên là Prei Kor vì nơi đó có nhiều
gòn và là nơi mua bán gòn, nhưng sau đó, khi vua thứ nhì của Campuchia đến đóng
đô tại đó, nó có tên mới là Prei Nokor (hiểu theo nghĩa là rừng của vua hay
thành phố giữa rừng đều được cả). Các sử gia Campuchia sau này chép lại việc
cho chúa Nguyễn đến địa phương này đặt sở thuế đã chép lại tên Prei Nokor mà họ
được biết nhiều hơn mà bỏ tên Prei Kor đi. Với giả thuyết này thì ý nghĩa và
nguồn gốc tên Sài Gòn có thể giải quyết được: đó là một tên phiên âm từ tiếng
Xiêm Cai Ngon có nghĩa là Rừng Chổi Cây Gòn, và phù hợp với tên Khmer nguyên thủy
Prei Kor cũng có ý nghĩa tương tự.
Vì không biết ngôn ngữ và văn phạm Khmer và Thái (Xiêm) nên chúng tôi
không thể đi sâu vào vấn đề này và chỉ xin nêu ra những nhận xét trên đây.
Chúng tôi mong ước rằng có vị nào thông thạo tiếng Khmer hay tiếng Thái lưu tâm
đến vấn đề này để làm sáng thêm ý nghĩa và nguồn gốc tên Sài Gòn yêu dấu của
chúng ta.
Lê Công Lý
Nhận xét
Đăng nhận xét