CHUYỆN TÊN ĐƯỜNG SÀI GÒN
CHUYỆN TÊN ĐƯỜNG
SÀI GÒN
Sau năm 1975, hầu hết bảng
tên những con đường mang tên các nhân vật lịch sử có liên quan đến chính quyền
Nguyễn Ánh, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… như Phan Thanh Giản, Lê Văn
Duyệt, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Trương Tấn Bửu, Trương Minh Giảng, Đỗ Thành
Nhân, Petrus Ký, thậm chí cả Phan Đình Phùng đều bị tháo gỡ xuống, thay vào đó
là tên những nhân vật đương đại…
Tên đường trong lịch sử Sài Gòn xưa và
nay
Từ cái thời các anh Tây mũi
lõ chưa xâm chiếm nước ta, thành phố Sài Gòn xưa đã có một hệ thống đường sá
ngang dọc trong một khu vực giới hạn bởi sông Sài Gòn và các con đường Nguyễn Bỉnh
Khiêm – Võ Thị Sáu – Hai Bà Trưng ngày nay.
Không rõ ông bà xưa có đặt
tên đường không, để mỗi lần viết thư kể lể tình yêu thì có cách mà nhắc nhau những
kỷ niệm ban đầu. Chỉ biết rằng khi Pháp mới chiếm Sài Gòn thì trong những năm đầu
thập niên 1860, Sài Gòn có 26 con đường mang số thứ tự từ 1 đến 26. Năm 1865,
Thống đốc Pháp De La Grandière mới lấy tên người hay tên những chiếc tàu tham
gia trực tiếp vào cuộc chiến chiếm Sài Gòn để đặt tên cho từng con đường một.
Bức ảnh “La Route de Saigon” chụp ảnh con
đường dẫn từ Chợ Lớn ra Bến Nghé, nay là đường Nguyễn Trãi, quận 5. Vào năm
1901, đây còn là một con đường đất nằm giữa hai hàng cây, hai bên chưa có nhà ở.
(Dẫn từ sách “150 năm hình bóng Sài Gòn” (1863-2013) – Tam Thái (NXB Trẻ, 2015)
Sang thế kỷ 20, nhất là từ
sau khi thực dân Pháp rút khỏi Việt Nam, tên đường được Việt hóa dần, phần lớn
lấy tên các danh nhân trong lịch sử. Đường Bonard thành đường Lê Lợi, đường
Charner thành đường Nguyễn Huệ, đường Catinat thành đường Tự Do, đường Espagne thành
đường Lê Thánh Tôn… Sau ngày 30/4/1975, trong việc điều hành thành phố, chưa
bao giờ người Sài Gòn nhìn thấy một cuộc “cách mạng” triệt để trong việc đặt
tên đường như thế. Hầu hết bảng tên những con đường mang tên các nhân vật lịch
sử có liên quan đến chính quyền Nguyễn Ánh, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự
Đức… như Phan Thanh Giản, Lê Văn Duyệt, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Trương Tấn Bửu,
Trương Minh Giảng, Đỗ Thành Nhân, Petrus Ký, thậm chí cả Phan Đình Phùng đều bị
tháo gỡ xuống, thay vào đó là tên những nhân vật đương đại mà rất nhiều dân Sài
Gòn-Chợ Lớn-Gia Định không biết họ là ai. Điều này phản ánh một cái nhìn chật hẹp,
đầy thiên kiến về lịch sử, về các nhân vật lịch sử, làm xáo trộn sự hiểu biết về
lịch sử của lớp trẻ và làm đảo lộn một cách không cần thiết các sinh hoạt của
người dân thành phố lúc bấy giờ. Ngày nay, sau gần 40 năm, vẫn chưa có gì hứa hẹn
một sự xem lại những việc làm vội vã vào một thời điểm có quá nhiều việc phải
làm sau 30/4/1975.
Trường nữ Trung học Gia Long nằm trên đường
Phan Thanh Giản trước 1975. Nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai nằm trên đường
Điện Biên Phủ.
Nhiều cuộc hội thảo phản ánh
những cái nhìn rộng rãi, hợp tình, hợp lý, hợp đạo nghĩa hơn đối với các nhân vật
lịch sử như Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký… đã được các tổ chức
có liên quan ít nhiều đến chính quyền, chủ yếu là Hội Sử học, tổ chức, song nhiều
mặt của đời sống, trong đó có chuyện tên đường, vẫn còn nguyên sức ỳ của chúng.
Ngày 4/2/2008, tượng đồng của Tả quân Lê Văn Duyệt cao 2,65m, nặng 3 tấn được đặt
tại lăng Ông trong một buổi lễ trang trọng, nhưng cái tên đường Lê Văn Duyệt
quen thuộc chạy ngang lăng Ông vẫn còn nằm ở một chân trời viễn tưởng nào. Tại
Cần Thơ, trường Phan Thanh Giản đổi thành Châu Văn Liêm sau 30/4, nay đã trở về
tên cũ, song đường Phan Thanh Giản xa xưa tại Sài Gòn-TP.HCM nay vẫn là Điện
Biên Phủ.
Đường Paul Blanchy, được chụp vào năm
1906. Sau năm 1955, đổi tên thành đường Hai Bà Trưng. (Dẫn từ sách “150 năm
hình bóng Sài Gòn” (1863-2013) – Tam Thái (NXB Trẻ, 2015)
Còn có một sự tắc trách đáng
phê phán nữa của Ủy ban đặt tên đường cấp thành phố vốn dĩ gồm những nhân tài
có bằng cấp cao, có tiếng tăm trong xã hội. Đó là hiện tượng đặt tên đường bằng
tên những “danh nhân” không có trong lịch sử. Chuyện này đã có lần nói rồi, chỉ
xin nhắc lại một cách sơ lược. Đó là ít nhất hai con đường Trần Khắc Chân, một ở
khu Tân Định, quận 1, và một ở quận Phú Nhuận, chạy ngang tòa soạn báo Tuổi Trẻ.
Vì trong lịch sử, tự cổ chí kim, không có nhân vật nào tên như thế cả, chỉ có
Trần Khát Chân và Trần Khắc Chung thôi. Trong lịch sử, cũng không có nhân vật
nào tên Trương Quốc Dung (quận Phú Nhuận) hết, chỉ có Trương Quốc Dụng. Đường
Sương Nguyệt Anh, lúc trương bảng ban đầu, ghi là Sương Nguyệt Ánh, ít lâu sau
chỉnh lại cho đúng, song cũng khá muộn, nên ngày nay hầu hết các cơ quan nằm
trên con đường này đều in tên Sương Nguyệt Ánh trên các giấy tờ giao dịch của họ.
Tên tộc, niên hiệu, hay miếu hiệu?
Với những con đường mang tên
các vì vua nổi bật trong lịch sử, việc đặt tên khá tế nhị. Giới nho sĩ xưa thường
có tên hiệu, nhưng vua chúa ngoài tên tộc khi nhỏ, còn có niên hiệu đặt ra khi
vừa lên ngôi, thụy hiệu do triều thần đặt ra khi vừa nằm xuống, và miếu hiệu đặt
ra để thờ trong Thế miếu.
Đại lộ Bonnard, nay là đường Lê Lợi (Q.1).
Bên phải là hành lang Eden và một hàng cây cổ thụ. Eden nay trở thành tòa
Vincom B còn hàng cây xanh bị chặt bỏ. (Dẫn từ sách “150 năm hình bóng Sài Gòn”
(1863-2013) – Tam Thái (NXB Trẻ, 2015)
Hiện nay, tên các vị vua này
được đặt cho các đường phố không theo một quy chuẩn nào. Ở Gò Vấp có đường
Quang Trung là niên hiệu của Nguyễn Huệ, song giữa trung tâm Sài Gòn lại có đường
Nguyễn Huệ, mang tên tộc của ông. Đường Lý Thái tổ ở quận 10 đặt theo miếu hiệu,
còn đường Lê Lợi ở quận 1 lại lấy theo tên tộc. Như vậy nên đổi Lê Lợi thành Lê
Thái tổ theo cách đặt cho Lý Thái tổ hay đường Lý Thái tổ nên đặt là Lý Công Uẩn
cho phù hợp với cách đặt của tên đường Lê Lợi? Đến nay, cách đặt tên theo nhiều
kiểu này vẫn chưa có ai nghĩ đến việc thống nhất hóa chúng.
Về tên đường Trần Hưng Đạo
Nói chuyện này cũng giống
như ngồi trên chiếc thuyền độc mộc chèo ngược dòng thác bạc đang đổ ầm ầm về
phía mình. Vì có dịp đi từ Nam chí Bắc, ta không khó nhận ra các đền thờ mang
tên Trần Hưng Đạo. Ai cũng biết đó là Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, một
trong những danh tướng có công lớn nhất trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông
trước và trong thập niên 1280. Song gọi ông là “Trần Hưng Đạo” có hợp lý, hợp
quy luật về cách đặt tên, phong tước hay không, đó là chuyện chúng ta “tản mạn”
một chút khi trà dư tửu hậu.
Đường
Boulevard Galliéni năm 1931 – con đường huyết mạch nối Sài Gòn với Chợ Lớn –
nay là đường Trần Hưng Đạo. (Ảnh dẫn từ flickr Manhhai)
Trước hết xin lược qua cách phong tước, đặt tên trong lịch sử để các bạn
trẻ (và bạn già nữa) yêu sử có chút ý niệm về chuyện này. Dưới thời quân chủ, tại
ít nhất hai nước Trung Hoa và Việt Nam, việc phong tước dựa vào 6 tước chính là
vương, công, hầu, bá, tử, nam. Trong mỗi tước, có sự phân biệt cao thấp, chẳng
hạn thời Trần, tước Đại vương cao hơn tước vương, thời Nguyễn, tước “nhất tự
vương” (một chữ vương, ví dụ Tuy Lý vương), cao hơn tước Quận vương (Tuy Lý Quận
vương), tước công từ cao xuống thấp có Quốc công, Quận công, Hương công… Cách
dùng chữ đặt tên cho tước cũng khác nhau tùy thời. Thời Trần, Lê, triều đình giở
sách tìm những từ Hán có nghĩa hay đẹp để phong tước cho các công thần, ví dụ
dùng từ “Hưng Đạo” để đặt cho tước vương của Trần Quốc Tuấn, thành Hưng Đạo
vương, dùng chữ Chiêu Văn cho Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, dùng chữ Chiêu
Minh cho Chiêu Minh vương Trần Quang Khải…
Thời Nguyễn định cách đặt tên phong tước khác hẳn. Triều Gia Long, phần
đông công thần được phong tước Công thì lấy tên mà phong, ví dụ Duyệt Quận công
(Lê Văn Duyệt), Thành Quận công (Nguyễn Văn Thành)… Đến các triều sau Gia Long,
việc đặt tên phong tước lại theo một cách khác nữa. Triều Thiệu Trị định rằng
tước Quốc công, Quận công thì lấy tên phủ mà đặt, tước Hầu lấy tên huyện, tước
Bá lấy tên tổng, tước Tử lấy tên xã, và tước Nam lấy tên thôn. Thí dụ ở trường
hợp Vĩnh Lại Quận công Nguyễn Hữu Đệ thì hai từ Vĩnh Lại là tên của một phủ.
Dù việc đặt tên, phong tước có theo cách nào thì trong một tước hiệu,
như tước vương, từ cốt lõi là từ “vương”, chứ không thể là từ nào khác. Những từ
Hưng Đạo, Chiêu Minh, Chiêu Văn … chỉ có tác dụng làm đẹp cho tước hiệu, phân
biệt tước này với tước kia, tự chúng không thể thay thế toàn bộ tước hiệu được.
Ví dụ với Bình Định vương Lê Lợi, ta không thể tách bỏ từ vương của ông để rồi
ghép vào tên ông thành Lê Bình Định, hay với Bắc Bình vương Nguyễn Huệ, không
thể gọi là Nguyễn Bắc Bình. Vậy mà với Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, không
biết tự bao giờ, chúng ta đã ngắt bỏ chữ vương trong tước hiệu của ông rồi ghép
vào tên thành “Trần Hưng Đạo”. Ta nhìn thấy tên này, nghe tên này nhiều quá
thành quen, song nếu suy cho cùng đối với vấn đề đặt tên, phong tước, ta sẽ thấy
đây là trường hợp độc nhất vô nhị, không có trước mà cũng chẳng có sau. Không
rõ các bậc thức giả có cách giải thích nào cho việc này không?
Lê Nguyễn
Nhận xét
Đăng nhận xét