Kỳ 119 -VUA MINH NÓI LỜI MỊ DÂN LÊ LỢI TUNG 4 ĐẠO QUÂN BẮC TIẾN


Kỳ 119
VUA MINH NÓI LỜI MỊ DÂN
LÊ LỢI TUNG 4 ĐẠO QUÂN BẮC TIẾN

Phong trào khởi nghĩa Lam Sơn từ cuối năm 1425 trở đi đã thực sự phát triển thành phong trào mang tính toàn dân, toàn quốc. Với việc nắm giữ vùng đất từ Thanh Hóa trở vào nam, vây bức quân Minh trong các thành trì, quân Lam Sơn đã khiến cho Minh triều hoàn toàn thay đổi thái độ đối với nhân dân ta. Trước đây, quân Minh diệt nước Đại Ngu, rồi đặt thành quận huyện. Nhưng người Minh thực sự chưa bao giờ coi dân Việt là “người một nhà”. Các chính sách đối với dân ta rất hà khắc và bất công, nhằm mục đích kiểm soát toàn bộ dân chúng và bóc lột ở mức độ cao nhất để làm giàu cho đế chế Minh.

Mỗi khi có phong trào phản kháng bùng lên mạnh mẽ, Minh triều bên cạnh việc đàn áp cũng tìm cách chiêu dụ quân dân ta, nhưng thường chỉ là những lời hứa hão huyền và khi việc đánh dẹp được thành công rồi thì chúng lại lộ mặt là quân giặc bạo ngược. Bây giờ khi quân Lam Sơn đang chiếm thế thượng phong trên chiến trường và Minh triều tạm thời chưa thống nhất được kế hoạch đưa quân tăng viện để phản kích, một lần nữa những lời lẽ chiêu dụ đầy vẻ nhân đức lại được ban ra từ một vị vua nước Minh. Đầu năm 1426, vua Minh Tuyên Tông xuống chiếu cho quan lại và dân chúng nước ta, chiêu an và thông báo thay đổi nhiều chính sách thuế khóa, lao dịch nặng nề trước đây hòng làm giảm đi sự chống đối của nhân dân ta. Chiếu viết rằng :

“Đạo lý thống trị cốt ở yên dân, lòng nhân xót thương, cũng nên tha tội. Giao Chỉ từ khi sáp
nhập vào bản đồ dến nay đã hai mươi năm, nhiều lần gây chuyện phản nghịch, phải huy động tới quân của nhà vua. Nhưng ghét chết, thích sống, lòng người không ai khác ai, lội nước vào lửa, bản tâm có ai muốn thế. Xét kỹ duyên do, đều bởi người có chức trách đã không biết cách vỗ về, lại còn cướp bóc không hề biết chán. Tình cảnh kẻ dưới không thấu lên trên, ơn trạch người trên không thấm xuống dưới.

Đến nỗi dân chúng khốn khổ, nảy lòng nghi ngờ, trốn vào núi rừng, họp nhau làm loạn. Xét thực tình đều là do bất đắc dĩ, nên xử tội cũng đáng được xót thương. Vậy ban ơn mưa móc, cho đều được thấm nhuần. Những quan lại và quân dân Giao Chỉ mắc tội phản nghịch và các tội khác, đã bị phát giác hay chưa bị phát giác, đã được xét xử hay chưa được xét xử, kể từ ngày chiếu thư này ban ra, không kể là tội lớn hay tội nhỏ, đều tha cho cả. Quân và dân đất Giao Chỉ, ngoài việc nộp tiền thuế và lương thực ra, các khoản trưng thu khác, cùng những việc đổi lấy vàng bạc, tiền đồng, muối, sắt, hương liệu, thuế cá... đều lập tức đình chỉ cả, cho phép được trao đổi ở trong hạt với nhau, quan phủ kkông được cấm.”(theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
 
Lần xuống chiếu này của vua Minh Tuyên Tông khác với những chiếu chỉ trước kia của Minh Thành Tổ Chu Đệ là việc gần như bãi bỏ hoàn toàn những chính sách bóc lột, nô dịch hà khắc mà nước Minh đã áp đặt lên lãnh thổ Đại Việt. Mặc dù vậy, khó mà khẳng định rằng vua Minh sẽ thực sự thi hành chính sách mới nhẹ nhàng hơn đối với nhân dân Việt một khi kiểm soát lại được tình hình. Và tất nhiên là nó cũng không được quân dân Việt tin tưởng, vì những việc làm trước đây của quân Minh với sự chỉ huy của những tướng lĩnh tàn bạo như Trương Phụ, Mộc Thạnh, Lý Bân, Trần Trí, Phương Chính … để khiến nhân dân quá chán ghét. Hơn nữa, ngoài vấn đề lợi ích còn có vấn đề dân tộc, quốc gia. Người Việt đơn giản là muốn làm dân của một đất nước Đại Việt độc lập, tự chủ. Lòng nhớ nước cũ và sự căm thù quân giặc khiến cho hầu hết nhân dân hướng về quân Lam Sơn. Những lời lẽ của vua Minh đều vô dụng.

Mùa thu năm 1426, trải qua gần một năm củng cố các vùng giải phóng, tạo thế bao vây vững chắc quân Minh từ Thanh Hóa trở vào thì Bình Định vương Lê Lợi và tướng lĩnh Lam Sơn vẫn không chủ trương công phá các thành trì bị bao vây. Bởi thời kỳ này việc công thành là việc rất khó khăn, không chỉ đòi hỏi bên tấn công phải có quân đông hơn gấp mầy lần, được huấn luyện kỹ càng mà còn phải có đủ chiến cụ như xe thang, dã pháo, máy bắn đá … Trong khi đó thì thành trì giặc đều có trang bị súng lớn đặt trên thành để phòng thủ, và quân giặc vào thế phải tử thủ sẽ chiến đấu liều chết. Nếu tấn công vào các thành, quân ta phải chấp nhận thương vong lớn. Thay vì chọn cách thức đòi hỏi tiêu hao nhiều nhân mạng, bộ chỉ huy nghĩa quân đã nghĩ ra kế sách vẹn toàn hơn để từng bước vững chắc đi đến thắng lợi.

Lê Lợi nhận định rằng tinh binh của giặc đều tập trung cả ở thành Nghệ An, các xứ thuộc lộ Đông Đô (tức chỉ đồng bằng sông Hồng) đều trống rỗng. Vì vậy, ngài quyết định điều động bốn đạo quân bắc tiến.

Đạo thứ nhất gồm khoảng 3.000 quân và một thớt voi dưới sự chỉ huy của các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Trịnh Khả, Đỗ Bí … tiến đánh các trấn Thiên Quan, Quảng Oai, Gia Hưng, Tam Đái, Tuyên Quang, Quy Hóa, Đà Giang tức vùng tây bắc, với mục tiêu là uy hiếp thành Đông Quan từ mặt tây và án ngữ con đường từ Vân Nam tiến vào nước ta hòng chặn viện binh, quân lương của giặc từ trong nước Minh sang theo hướng này.

Đạo thứ hai có 2.000 quân và 1 thớt voi, dưới quyền chỉ huy của Lưu Nhân Chú, Bùi Bị, Lê Văn, Lê Ninh tiến đánh các xứ Thiên Trường, Tân Hưng và Kiến Xương (tức vùng Thái Bình, Nam Định ngày nay) để phòng khi quân tinh nhuệ của giặc ở thành Nghệ An thua trận rút ra bắc thì chặn đánh tiêu diệt, không cho chúng có cơ hội tổ chức lại lực lượng. Sau Lê Lợi phái thêm 3.000 quân xứ Thanh Hóa và 1 thớt voi ra tăng cường cho đạo quân này, nhận thêm nhiệm vụ đi vòng sang đông bắc tiến chiếm các xứ Khoái Châu, Thượng Hồng, Hạ Hồng, Bắc Giang, Lạng Giang tức là cả một vùng rộng lớn từ ven biển phía đông đồng bằng sông Hồng đến tận vùng biên giới phía bắc, nhằm mục đích bao vây quân Minh từ mặt đông và đón chặn viện binh, quân lương của giặc từ Quảng Tây sang.

Đạo thứ ba có 2.000 quân đều là tinh binh được tuyển chọn, giao cho các tướng Đinh Lễ, Nguyễn Xí tiếp theo sau hai đạo quân trên tiến đánh thẳng vào Đông Quan, không cốt công phá thành trì ngay mà để phô trương thanh thế, phủ dụ nhân dân, thăm dò tình hình rồi mới liệu thế tiến thủ.

Ba đạo quân Lam Sơn bắc tiến có nhiệm vụ khác nhau, cách thức thực hiện nhiệm vụ cũng có sự khác biệt những đều có đường lối chung là dựa vào nhân dân mà chiến đấu, thực hiện lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh. Nghĩa quân Lam Sơn đã thực hiện một phương thức chiến tranh rất mới mẽ và đặc biệt xét tại thời kỳ này. Trong phương thức này, một đội quân không chỉ đóng vai trò chiến đấu, mà còn thêm vai trò tuyên truyền, phát động toàn dân cùng chiến đấu.Tất nhiên mỗi đạo quân chỉ có khoảng vài ngàn người sẽ không thể giao chiến kiểu quy ước với quân Minh ở thành Đông Quan dù thất thế vẫn còn đến hàng vạn tên.

Quân ta thực hiện sách lược luồng sâu vào vùng chiếm đóng của giặc để phát động toàn dân cùng đứng lên đánh địch, kết nối với các lực lượng yêu nước, các anh hùng hào kiệt ở các xứ trước giờ vẫn còn đang phải chịu sự kìm tỏa của giặc hay phải ẩn thân nơi rừng núi, và kết nối với chính những nhóm vũ trang do chính phong trào Lam Sơn đã cài người đến ở trong những địa phương để thành lập bí mật từ trước. Trước khi ra quân, các tướng đều nhận quân lệnh không được tự tiện xâm phạm của dân. Quân đi đến đâu đều nghiêm chỉnh đội ngũ, gần gũi với nhân dân. Những nơi quân Lam Sơn đi qua chợ vẫn họp như thường ngày. Dân chúng đều mừng vui đem rượu thịt ra đón mừng và hưởng ứng hiệu lệnh của nghĩa quân Lam Sơn. Khí thế của quân và dân hòa lại làm một, càng trở nên to lớn và dữ dội khác thường.

Quốc Huy



Nhận xét

Bài đăng phổ biến