HỦY - TẠO: TỪ “GIAO HOAN” VÀ CÂU CHUYỆN NGÔN NGỮ
HỦY - TẠO: TỪ “GIAO HOAN”
VÀ CÂU CHUYỆN NGÔN NGỮ
Nhà nghiên cứu phê bình Đặng Tiến ở Pháp có thắc mắc: Tại sao các
từ điển tiếng Việt hiện hành đều đồng loạt giải thích “giao hoan là cùng nhau
vui vẻ”? Bác mỉa mai: “Tôi ngạc nhiên mà cũng có hoang tưởng lén lút”. Hoang tưởng
lén lút cái gì? Hiển nhiên là nghĩ đến quan hệ tình dục. Cách giải thích của từ
điển như vậy ắt người nước ngoài học tiếng Việt dễ nhầm tưởng nghĩa-đang-sử-dụng
của giao hoan là cùng nhau vui vẻ, giống như “liên hoan”. Mà không chỉ
người nước ngoài, nếu một thanh niên bản ngữ tưởng từ điển là chuẩn, rất dễ bị
ăn tát khi nói với cô gái nào đó, rằng “anh muốn giao hoan với em”.
Một số học giả đặt hoài nghi, hay là tại thời điểm biên soạn từ điển, từ giao
hoan không có nghĩa như hiện nay? Trong cảm thức của tôi, nghĩa gốc của giao
hoan chỉ có thể là quan hệ xác thịt. Mà quan hệ xác thịt thì hiển nhiên là
vui vẻ. Vui vẻ nhất trong mọi sự vui vẻ.
Trong một sổ tay lưu lạc của
Albert Einstein có ghi lại hai điều đáng lưu ý:
– “Mọi thứ trong Vũ trụ thật sự
rất đơn giản. Nếu như nó có phức tạp chút nào, thì đó là do chúng ta không suy
nghĩ đúng chỗ”
– “… đừng tin những câu trả lời
thông dụng hay điều mà những người khác đã nói (thậm chí nếu người đó tên là
Isaac Newton”.
Albert nói cho vật lý học nhưng
cũng cho tất cả.
Quả thật, mọi thứ chúng ta nhìn
thấy rất đơn giản. Chúng ta vẫn thấy Mặt trời mọc hàng ngày, hoa vẫn nở, lá vẫn
xanh, vẫn thấy mọi người yêu nhau và đánh nhau…
Nhưng thấy là vậy mà biết về những
cái ấy, điều ấy thì lại vô cùng phức tạp. Chính Albert diễn giải học thuyết của
mình mấy trăm trang cũng không ai hiểu gì cả. Không phải Albert phức tạp điều dễ
hiểu thành lý thuyết mà bởi người ta quá tin vào những điều người đi trước đã
nói. Té ra không phải do cái gọi là lý thuyết mà do ta cả tin, tức bị trượt vào
tín điều mà không chịu động não. Hãy đặt suy nghĩ đúng chỗ là thông điệp của
Albert Einstein. Mọi sự thật đơn giản, như chính cuộc sống, nhưng các học giả
đã làm cho nó phức tạp.
GS. Nguyễn Huệ Chi tra vào tận gốc
từ điển Trung Quốc và xác nhận:
“Từ “giao hoan” 交歡 có 4 nghĩa (đều có dẫn các câu văn cổ làm minh chứng), xếp
theo thứ tự như sau:
Nghĩa 1: 與人結交而取得對方的歡心 (dữ nhân kết giao nhi thủ đắc đối phương đích hoan tâm) = kết giao với người khác và nhận được tấm lòng hoan hỷ của đối phương.
Nghĩa 2: 結好 (kết hiếu) = kết tình giao hảo;
Nghĩa 3: 一齊歡樂 (nhất tề hoan lạc) = cùng nhau vui chơi [thỏa thích];
Nghĩa 4: 男女成婚或歡合 (nam nữ thành hôn hoặc hoan hợp) “Thành hôn” thì ai cũng hiểu rồi, còn chữ “hoan hợp”? Tra chữ “hoan hợp” thì có nghĩa: 因歡愛而結為夫妻 (Nhân hoan ái nhi kết vi phu thê) = nhân “hoan ái” mà kết làm vợ chồng. Lại tra chữ “hoan ái” thì có nghĩa: 男歡女愛 (nam hoan nữ ái) = trai gái yêu nhau”.
Nghĩa 1: 與人結交而取得對方的歡心 (dữ nhân kết giao nhi thủ đắc đối phương đích hoan tâm) = kết giao với người khác và nhận được tấm lòng hoan hỷ của đối phương.
Nghĩa 2: 結好 (kết hiếu) = kết tình giao hảo;
Nghĩa 3: 一齊歡樂 (nhất tề hoan lạc) = cùng nhau vui chơi [thỏa thích];
Nghĩa 4: 男女成婚或歡合 (nam nữ thành hôn hoặc hoan hợp) “Thành hôn” thì ai cũng hiểu rồi, còn chữ “hoan hợp”? Tra chữ “hoan hợp” thì có nghĩa: 因歡愛而結為夫妻 (Nhân hoan ái nhi kết vi phu thê) = nhân “hoan ái” mà kết làm vợ chồng. Lại tra chữ “hoan ái” thì có nghĩa: 男歡女愛 (nam hoan nữ ái) = trai gái yêu nhau”.
Sự phức tạp nằm ở đó. Vậy là
Giáo sư tỏ ra “rất băn khoăn, vì mình vốn tin ở các học giả tiền bối, không dám
phê phán họ một cách khinh suất”.
Các cụ gốc nho nhã, các cụ chỉ
tin vào câu chữ của văn chương, không nhìn thấy ẩn bên trong cái từ ấy là gì
cũng phải. Không khinh suất là đúng, vì nhà Nho chỉ nhìn thấy cái quần, nhưng
giới bình dân thì quá quen với cái trong quần. Đơn giản cái trong quần là
sự sống, niềm vui và hạnh phúc của họ. Không ngẫu nhiên mà từ giao hoan khi
được Việt hóa lại mang nghĩa trần tục là chuyện quan hệ xác thịt. Không khinh
suất các cụ Nho học nhưng cũng không thể coi thường giới bình dân, mặc dù giới
bình dân không cần biết mặt chữ là gì. Trong trường hợp này F. Saussure đúng
khi nói “người bản ngữ luôn luôn đúng”.
Tra cứu từ điển, dù có tra đến từ
nguyên cũng chỉ là trên bề mặt. Trích dẫn văn chương thì càng không thể tìm ra,
vì văn chương ít khi dùng nghĩa tục. Phải tra đến Kim Bình Mai thì
may ra mới có thể lộ diện cảnh trai gái lõa thể với cuộc ái ân đầy xác thịt đến
không muốn rời ra: “Nhị nhân tựu tại viện nội đắng thượng xích thân lộ thể, tịch
chẩm giao hoan, bất thăng khiển quyển” 二人就在院內凳上赤身露體,
席枕交歡, 不勝繾綣 (Đệ bát thập nhị
hồi). Kim Bình Mai nổi tiếng dâm thư, cho nên mới hé lộ cách dùng từ ở
nghĩa nguyên thủy mà chính một nhóm người có học đã cố tình làm lệch lạc, sai
nghĩa hoặc mất nghĩa.
Đến đây thì chỉ có thể khảo cổ
văn hóa mới thấy phần nào chiều sâu cái nghĩa bị đè lấp bởi lớp vỏ của từ. Ngôn
ngữ là sản phẩm của văn hóa. Mà văn hóa thì có đến tầng tầng lớp che đậy lên sự
thực.
Hoan là vui vẻ, không tra cứu
cũng biết là niềm vui tinh thần. Nhưng chữ Giao, từ tố đóng vai trò chính
để ghép thành giao hoan thì đáng nghi lắm khi dám bảo nó không mang
nghĩa xác thịt. Chẳng lẽ nó cũng chỉ mang nghĩa tinh thần? Nếu bổ sung cho từ
điển hiện nay, từ nghĩa gốc: vui vẻ với nhau, đến thêm nghĩa phái
sinh: quan hệ xác thịt thì thậm vô lý. Không có chuyện ngược đời đó,
cho nên các cụ gốc Nho hoặc ảnh hưởng Nho lúng túng, không đưa vào từ điển cũng
phải.
Muốn biết gốc thì phải truy tự
hình, đến tận giáp cốt văn, triện văn, kim văn và xa hơn cả món giáp cốt văn vốn
là tự hình nguyên thủy kia, tức hủy hoàn toàn cái cấu trúc bền vững đang-sử-dụng
của giới Nho học còn sót lại: “giao hoan” là “cùng nhau vui vẻ”. Chỉ có làm như
thế thì may ra mới thấy cái gì đang bị giấu kín hoặc bị xóa mờ đi bởi cái gọi
là văn hóa mà đại diện của nó là các Cấm kỵ (Taboo) đã từng chuyển nhân loại từ
tự nhiên hoang dã sang văn hóa văn minh.
Trong các từ điển Hán đều ghi nhận
chữ Giao 交 có tự hình giáp cốt văn, triện văn,
kim văn như sau:
Nó giống cái gì vậy? Giống một
người dạng háng ra và một “vật lạ” có khấc chọt vào. Điều này làm ta liên tưởng
đến hình ảnh phồn thực nguyên thủy trong đền cổ của Ấn Độ giáo:
Đây là hình ảnh tả thực để sau
này thành cặp Linga-Yoni. Ấn Độ giáo đã biến cái này thành các vị thần sinh diệt:
Shiva, Vishnu, Brahma. Chân dung thần Shiva nguyên thủy được ghi nhận như là
cái Linga.
Kể cả Phật giáo sau đó cũng mượn
lại và biến thành A Di Đà, đẩy sự sung sướng trần tục về Tây Phương Cực Lạc:
Dù đã cố tình cắt xén, biên tập,
kiểm duyệt khắt khe, cố tình xóa đi dấu vết trần tục trong quá trình kiến tạo
văn hóa, nhưng vẫn còn đó, dù mờ nhạt dần, cái dấu vết mang hình hài nguyên thủy
của chuyện xác thịt mà loài người đã từng tín ngưỡng. Rõ ràng cái Thiêng ban đầu
là cái Tục, hay nói cách khác, cái Tục đã sinh ra cái Thiêng. Sự đối lập giữa Tục
và Thiêng là sản phẩm của tư duy nhị nguyên, trong khi khởi thủy hoàn toàn nhất
nguyên: Tục cũng là Thiêng và Thiêng cũng là Tục. Chính con người sau các cấm kị
đã có xu hướng từ giã trần tục để tìm đến thiên đàng rồi trôi dần vào hoang tưởng.
Quay lại chữ Giao, từ tố
chính của từ giao hoan. Giao ban đầu chỉ có thể là quan hệ xác
thịt. Không phải không có, chính Từ điển phổ thông ghi nhận, nhưng lại xếp vào
nghĩa thứ 4 sau các nghĩa tinh thần: ④
(Động) Giống đực và giống cái dâm dục. ◎Như: “giao hợp” 交合,
“giao cấu” 交媾. Từ điển Thiều Chửu xếp đến nghĩa cuối cùng, nghĩa thứ
8: ⑧ Dâm dục, giống đực giống cái dâm
dục với nhau gọi là giao hợp 交合, là
giao cấu 交媾, v.v. Từ điển Trần Văn Chánh xếp đến thứ 9: ⑨ Sự giao hợp, sự giao phối (giữa
nam nữ, đực và cái về mặt sinh dục): 交媾 Giao
cấu; 虎始交 Loài
hổ bắt đầu giao phối (từ tháng thứ hai cuối mùa đông) (Hoài Nam tử).
Sự thực, chữ Giao khi
được cải biến thành các dạng khác mới chuyển nghĩa tinh thần. Kết hợp với bộ nữ thành 姣,
nghĩa là đẹp, quyến rũ. Kết hợp với bộ nhân thành 佼 mang
nghĩa bạn bè, bằng hữu. Kết hợp với bộ khẩu thành 咬 tiếng
chim kêu gọi bạn. Kết hợp với bộ nguyệt thành 胶 keo
sơn, kết dính.
Việc chuyển nghĩa trong giao
du 交遊 đi
lại chơi bời với nhau (Thiều Chửu), chẳng khác gì tiếng Việt ta dùng từ “chơi”
thay cho hoạt động giao hoan ở nghĩa xác thịt!
Các nghĩa khác mang tính tinh thần
của từ giao như giao thiệp, giao cảm, giao tế, giao tiếp và giao
hoan dù đã xa sang địa hạt tinh thần vẫn không thoát ly khỏi cái nghĩa gốc
của giao là quan hệ xác thịt. Không ngẫu nhiên mà nó tạo ra cả hệ
thống: giao cấu, giao hợp, giao hoan… trong cùng một trường nghĩa. Bởi
vì, theo Phân tâm học cổ mẫu, con người đã trải nghiệm thân xác và tư duy từ
xác thịt của mình trước khi tư duy về vũ trụ. Chỉ vì sau đó tôn giáo ra đời mới
có chuyện nói ngược, rằng Trần tục do Thiên đường sinh ra. Người ta diễn
nghĩa Kinh Dịch, dù có nói đến quan hệ Trời Đất mênh mông cũng không thể
quên quan hệ Nam Nữ: Thiên địa giao vạn vật hóa sinh, Nam nữ cấu tinh vạn
vật hóa thuần, Thượng hạ giao nhi kì chí đồng dã…
Có thể kết luận, từ giao
hoan mang nghĩa gốc phải là quan hệ xác thịt, sau được chuyển sang
nghĩa tinh thần: cùng nhau vui vẻ. Nếu cập nhật vào từ điển xem nghĩa trần
tục với quan hệ xác thịt kia là nghĩa phái sinh thì không thể được, vì cách làm
đó chỉ có thể là nói ngược. Như vậy, chính quá trình Việt hóa chữ Hán, một cách
vô thức, người Việt đã làm sống lại nghĩa tưởng chừng đã chết bởi sự cấm kỵ, đè
lấp của văn hóa Nho giáo. Giao hoan chỉ quan hệ tình dục là nghĩa trường
tồn, cổ sơ và cũng hiện đại, trừ phi kẻ có học cố tình che giấu hay đánh mất.
Không chỉ từ giao hoan mà điều
này có thể diễn ra ở nhiều từ khác. Từ sự cấm kị, các từ dịch chuyển bằng hình
thức kiểm duyệt, biên tập, cắt xén làm thay đổi hình thức lẫn nội dung. Nguyên
lí dịch chuyển của S. Freud đúng cho cả ngôn ngữ như một hiện tượng tâm lý
và văn hóa. Chữ ghi hình đi qua một quy trình từ tả thực rồi dịch chuyển sang
biểu trưng thông qua thao tác cắt xén, biên tập, giản lược hóa, thẩm mỹ hóa, trừu
tượng hóa. Nhớ có một lần, TS. Nguyễn Xuân Diện chia sẻ: chữ Tổ 祖 mang
nghĩa là kẻ đầu tiên sinh ra con người lại có tự hình là cái dương vật, phản
ánh sâu sắc chủ nghĩa duy dương vật (Phallogocentrism) và ý thức phụ quyền. Chữ
Nữ 女 có tự hình nguyên thủy là cái âm vật, khi chế biến
sang chữ Nôm, các cụ ta đã điểm thêm vào lỗ trống dấu chấm đọc là chữ Đĩ, phục
sinh đầy đủ nghĩa trần tục của nó. Điều này không khác người bình dân gọi tên
con trai, con gái bằng chính bộ phận sinh dục của chúng vì đời sống ngôn ngữ của
họ nằm ngoài hàng rào cấm kỵ. Đó không phải là chuyện đùa mà là sự thật nghiêm
túc.
Cấu trúc luận chủ trương
nghĩa-đang-sử-dụng, bất chấp lịch sử của từ. Bởi họ quan niệm nét nghĩa đã mờ
hoặc đã chết không còn giá trị. Đó là một sai lầm. Phân tâm học và Giải cấu
trúc xem cái đã mờ, thậm chí tưởng chừng đã chết lại không bao giờ chết. Nó sẽ
tồn tại bên dưới ngôn từ, J. Lacan gọi là phần Thực luôn bị che giấu, vắng mặt
và không thể diễn tả bởi Cấm kỵ. Ngôn ngữ hình thành từ cái Thực (Real) theo thị
giác, kích thích Tưởng tượng (Image) và cuối cùng kết tinh ở dạng Biểu trưng
(Symbolic). Có nghĩa là ngôn-ngữ-đang-sử-dụng là dạng Biểu trưng do cả một quá
trình kiến tạo dưới áp lực của Cấm kị (Taboo) bằng hình thức cắt xén, biên tập,
kiểm duyệt. Nghĩa do đó thường bị trượt (glissement) trên các Biểu trưng và Chuỗi
biểu đạt. Nhưng theo Lacan, trong khi Biểu trưng thuộc quyền lực kìm nén dục vọng,
đẩy cái Thực xuống tầng sâu, thì cái Thực vẫn luôn có xu hướng trồi lên và sẽ
được đánh thức, đồng thời gia tăng theo tưởng tượng trong vô thức. Ngôn ngữ
không chỉ là sản phẩm của ý thức như cấu trúc luận quan niệm mà còn là vô thức.
Derrida gọi các dấu hiệu chìm lấp ấy là các “vết mờ”, tức không bao giờ mất đi
và luôn mang tính dự phòng cho nhiều cách diễn giải. Với người sử dụng bình thường,
có thể họ chỉ biết nghĩa-đang-sử-dụng, nhưng nhà nghiên cứu thì phải biết cả lịch
sử của từ, làm hiện các vết mờ để gia tăng về nghĩa. Thực chất, ngay cả người
bình thường, ngôn ngữ trong cảm thức của họ cũng luôn có tính dự phòng trong vô
thức, trong một tình huống nào đó phần vết mờ sẽ hiện ra đầy đủ. Các trường hợp
lấy cái bị giấu kín để đặt tên con, gọi cái bị giấu kín ra để chửi, để văng tục,
nói nhịu đều thuộc hiện tượng đó.
Hệ luận mà Derrida đã chỉ ra, do
chữ viết ghi âm đã đánh lừa chúng ta, bản thân chữ viết là không võ đoán, rõ nhất
là trong chữ ghi hình. Với lối ghi hình theo thị giác, ngôn ngữ cổ sơ của loài
người gần với tự nhiên và từng là ngôn ngữ chung của nhân loại, không phân biệt
khu vực, địa cư và chủng tộc. Có lẽ vì thế mà, nếu nhìn dưới góc nhìn giải
huyền thoại, ta dễ nhận ra một sự thật trong câu chuyện về tháp Babel
trong Sáng thế ký. Chuyện kể rằng, sau Đại hồng thủy, một nhóm người
và các thế hệ tiếp theo nói cùng một thứ ngôn ngữ và di trú từ phía đông, đã
tham gia vào việc xây dựng tháp Babel với tham vọng xây nên một tòa tháp thật
to lớn đến mức đỉnh của nó chạm đến Thiên đường. Sự thống nhất ngôn ngữ mang lại
sức mạnh cho con người đến mức có thể cạnh tranh với sự vĩ đại của Thiên Chúa.
Nhưng điều gì đã xảy ra? Kinh Thánh ghi: Vì sự kiêu ngạo này, Thiên Chúa
ngăn chặn việc xây dựng tháp một cách không đổ máu bằng cách gây ra một sự xáo
trộn và bất đồng của tiếng nói, và do khó khăn về giao tiếp không thể vượt qua,
những người xây dựng đã từ bỏ dự án và tản ra trên khắp trái đất. (Gen
11,7,8 EU). Hậu quả sự ngăn chặn của Thiên Chúa trong câu chuyện phản ánh hậu
quả tất yếu của Cấm kỵ và triết lý hai mặt về sự phát triển và tha hóa của ngôn
ngữ: càng đa dạng càng phức tạp dễ gây chia rẽ và rối loạn, nhưng nó cũng phản
ánh sâu sắc sự vận động tất yếu từ nhất nguyên đến đa nguyên của ngôn ngữ. Sự
chia rẽ và rối loạn đó chỉ có thể là bởi sự đánh mất chữ viết ghi hình và sự biến
động của ngôn ngữ dưới dạng âm thanh, mà kết quả là chữ viết ghi âm ra đời với
những ưu điểm về sự ghi lại âm thanh, giản lược cùng khả năng trừu tượng hóa tư
tưởng, nhưng lại mang nhược điểm về sự võ đoán và mất hẳn chức năng giao tiếp
phổ quát toàn cầu.
Đến đây có thể kết luận điều mà
tôi từng xác quyết: chữ Hán không phải độc quyền của người Hán. Nó là ngôn ngữ
nguyên thủy của loài người đã bị người Hán độc chiếm thành của riêng.
Quy Nhơn 20/7/2017
CHU MỘNG LONG
Nhận xét
Đăng nhận xét