Kỳ 139 -TƯỢNG BINH ĐẠI VIỆT PHÁ TAN KỴ BINH ĐẠI LÝ
Kỳ 139
TƯỢNG BINH ĐẠI VIỆT
PHÁ TAN KỴ BINH ĐẠI LÝ
Không thể đóng quân lâu dài nơi rừng núi, Lý Thái Tổ quyết định rút
quân về đồng bằng dưỡng sức, chuẩn bị cho những biến cố về sau. Quả nhiên sau
đó không lâu, quân giặc mạnh đã đến. Tháng giêng năm 1014, quân Đại Lý dưới do
các tướng Dương Trường Huệ, Đoàn Kính Chí rầm rộ tiến sang, chính thức mở màn
cuộc xâm lược nước Đại Cồ Việt. Theo sử cũ là Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, đoàn
quân này đông đến 20 vạn người. Nhưng theo sách An Nam Chí Lược dẫn lời thư của
vua Lý Thái Tổ gửi cho nước Tống thì quân Đại Lý chỉ có 3 vạn người. Vậy đâu là
con số đáng tin?
Nếu tính theo tỷ lệ thông thường thời kỳ này là khoảng 3-4 dân phu cho
một người lính viễn chinh, có thể suy ra quân số thực của Đại Lý là khoảng 4-5
vạn quân chiến đấu, 15-16 vạn dân phu. Trong thành phần đội quân Đại Lý, ngoài
người Hạc Thác có 3 vạn, còn có số quân liên minh người Tày, Nùng, Thái… chiếm
khoảng 1-2 vạn quân. Con số này phù hợp với tính chất của cuộc chiến là đánh lấn
đất ngoài biên giới, mở rộng vùng ảnh hưởng và cướp bóc chứ không phải một cuộc
chiến tổng lực nhằm thôn tính toàn bộ nước Đại Cồ Việt.
Thế mạnh của quân Đại Lý nằm ở chỗ họ có rất nhiều ngựa chiến, tức là
có nhiều kỵ binh, cùng với nguồn hậu cần dồi dào. Nguyên nước Đại Lý thời kỳ là
vương quốc buôn bán ngựa nổi danh trong khu vực. Ngựa Đại Lý được cho là tốt nhất
trong các nước phương nam. Ngoài các lợi thế trên, quân Đại Lý còn có được sự ủng
hộ của không ít dân Tày, Nùng, Thái trong vùng nhờ vào các mối quan hệ buôn bán
trước đó và sự gần gũi về phong tục, ngôn ngữ.
Khi thấy giặc tiến sang, châu mục Bình Nguyên (thuộc Hà Giang ngày nay)
là Hoàng Ân Vinh cho người chạy trạm cấp báo về thành Thăng Long. Lý Thái Tổ, tức
vua Lý Công Uẩn được tin, bèn phái Dực Thánh Vương (không rõ tên thật) – vị
hoàng tử thứ năm của nhà vua cầm hàng vạn quân đi đánh giặc. Quân Đại Cồ Việt
có lợi thế lớn ở tượng binh, bộ binh thì dũng cảm và có nhiều kinh nghiệm trận
mạc. Kỵ binh nước ta trước đó ít và yếu hớn nước Đại Lý, nhưng đã được tăng cường
đáng kể nhờ vào nguồn ngựa bắt được từ chính những thương nhân Đại Lý vào năm
1012.
Quân Đại Lý tiến quân đóng ở bến Kim Hoa, châu Vị Long, lập doanh trại
gọi là trại Ngũ Hoa để chờ quân Đại Cồ Việt đến. Quân Đại Lý không cần tiến
nhanh như gió bão, mà chỉ mong chiếm cứ lấy phần đất biên giới. Việc quân Đại
Lý đóng trại không tiến cùng với sự đồng tình của một bộ phận không nhỏ dân cư
vùng biên viễn đã phần nào tăng thêm phần khó khăn cho quân Đại Cồ Việt. Giặc
tuy là quân đi xâm lấn, nhưng lại giữ được thế nhàn. Quân ta là bên giữ đất
nhưng trở thành kẻ phải chịu nhọc. Điều này đặt ra cho quân Đại Cồ Việt hai lựa
chọn: một là phải chủ động tiến đánh quân Đại Lý lúc này đang ở thế thủ chờ sẵn,
hai là chấp nhận mất đất vào tay Đại Lý.
Dực Thánh Vương kéo quân đến Vị Long, không ngần ngại cho quân tấn công
vào trại quân Đại Lý. Đoàn Chí Kính, Dương Trường Huệ cũng dàn quân ra ứng chiến.
Hai bên đánh nhau một trận lớn Mao Lâm. Quân Đại Lý dù có kỵ binh mạnh nhưng
không chống nổi voi ngựa, cung nỏ của quân Đại Cồ Việt, phải tan chạy. Dực
Thánh Vương thúc quân truy kích, bắt sống được tướng Dương Trường Huệ, chém hàng
vạn quân Đại Lý. Đoàn Kính Chí cùng đám tàn quân và dân phu bỏ chạy thục mạng về
nước, để lại hàng vạn ngựa chiến, vô số khí giới, lương thực… Tất cả đều trở
thành chiến lợi phẩm cho nước Đại Cồ Việt.
Sau trận đại thắng, vua Lý Thái Tổ liền sai viên ngoại lang Phùng Chân
cùng Lý Thạc đi sứ sang Tống, tặng 100 con ngựa chiến và báo tin thắng trận cho
nước Tống biết. Việc ngoại giao này vừa để thể hiện thiện chí, vừa tỏ rõ cho
người Tống thấy sự hùng cường của nước Đại Cồ Việt mà thôi không nhòm ngó.
Ngoài ra, cũng là để gián tiếp kìm chế nước Đại Lý bởi vì ngoài Đại Cồ Việt thì
nước Tống cũng là thế lực mà Đại Lý phải đề phòng. Nước Đại Lý vừa hao binh tổn
tướng và nước Tống đã biết điều đó, buộc Đại Lý phải sắp đặt quân đội chuyển
sang thế thủ chứ không thể nghĩ đến việc trả đũa.
Tống Chân Tông biết tin Đại Cồ Việt đánh thắng Đại Lý, lòng vừa phục vừa
ái ngại. Để đáp lễ, vua Tống hết mực khoản đãi sứ giả. Từ lúc vào địa giới Tống
cho đến kinh thành Khai Phong, phía Tống đài thọ tất cả chi phí. Khi sứ bộ Phùng
Chân vào chầu, vua Tống ban nhiều mũ, đai, đồ dùng, lụa là tùy theo thứ bậc từng
người. Sau việc đi sứ này, quan hệ Đại Cồ Việt và Tống trở nên êm thắm một thời
gian, phần vì thiện chí của vua ta, phần vì nước Tống đã biết binh uy nước Đại
Cồ Việt vẫn hùng mạnh sau cuộc đổi ngôi. Không như trước đó, Tống Chân Tông vẫn
hục hặc với nhà Lý vì cho rằng Lý Thái Tổ là kẻ cướp ngôi.
Sau trận chiến này, người Đại Lý không còn dám bén mảng đến vùng biên
thùy nước Đại Cồ Việt nữa. Thừa thế thắng, vương triều Lý cố gắng thiết lập lại
nền cai trị chặt chẽ hơn đối với vùng tây bắc. Những tù trưởng người Di Lão muốn
ly khai khỏi Đại Cồ Việt mất đi thế lực chống lưng trở nên yếu ớt, một số đành
chấp nhận quy phục, một số khác cố gắng liên kết lại để phản kháng đều bị triều
đình nhà Lý đều quân mạnh đi đánh dẹp. Năm 1015, liên minh các bộ lạc do tù trưởng
Hà Trắc Tuấn nổi lên ở các châu Đô Kim, Vị Long, Thường Tân, Bình Nguyên, quyết
trận sống mái với triều Lý hòng lập nên một cõi giang sơn riêng. Vua Lý Thái Tổ
sai hai hoàng tử là Dực Thánh Vương, Vũ Đức Vương dẫn quân đi đánh. Hà Trắc Tuấn
binh ít thế cô không thể địch nổi. Quân đội nhà Lý đánh tan tác đạo quân người
dân tộc thiểu số, bắt sống Hà Trắc Tuấn giải về kinh đô Thăng Long, chém đầu
bêu ở cửa đông thành.
Cuộc chiến với nước Đại Lý tuy sử liệu còn ít ỏi và ít được nhắc đến
trong sử sách hiện đại, nhưng cùng đóng vai trò quan trọng trong việc định hình
nên lãnh thổ nước Việt Nam. Nhờ vào chiến thắng trước quân Đại Lý, nhà nước
quân chủ của người Việt đã tiến thêm một bước trong việc kiểm soát lãnh thổ
vùng tây bắc, góp phần đưa các sắc dân nơi đây vào một quỹ đạo chung của triều
đình Thăng Long. Chiến công này là một trong những nền tảng đầu tiên, cùng với
những biện pháp hôn nhân, phủ dụ của các đời vua Lý về sau nữa, nước Đại Cồ Việt
– Đại Việt dần có được một vùng biên giới tây bắc yên ổn để từ đó huy động sức
người sức của vào các cuộc chiến chống ngoại xâm. Khi quân giặc từ phương bắc
tiến sang, vùng tây bắc trở thành một vùng đệm che chở cho trung châu nước Việt.
Quốc Huy
Nhận xét
Đăng nhận xét